Bản án 01/2020/HS-ST ngày 21/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 21/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 17/11/1984 tại Văn Lâm - Hưng Yên; nơi cư trú: Đội 2, thôn M, thị trấn Nh, huyện V, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Ch và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Đặng Thu H1 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo bị tạm giữ ngày 08/6/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 17/6/2019 đến nay. Có mặt.

Những người làm chứng:

Chị Đặng Thu H1, sinh năm 1991; nơi cư trú: Đội 2, thôn M, thị trấn Nh, huyện V, tỉnh Hưng Yên. Vắng mặt, không lý do.

Anh Bùi Văn Ng, sinh năm 1989; nơi cư trú: Khu 2, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 00 phút, ngày 07/6/2019, Nguyễn Văn Đ dắt xe mô tô biển kiểm soát 17M1 - 07XX ra khỏi nhà mình tại Đội 2, thôn M, thị trấn Nh, huyện V, tỉnh Hưng Yên để đi Sơn La. Thấy Đ đi đêm nên vợ của Đ là chị Đặng Thu H1 đòi đi cùng, khi đi vợ của Đ có bế theo con gái sinh năm 2015. Khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 08/6/2019, Đ cùng vợ, con lên đến huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Sau đó, Đ tìm một quán nước ven đường cho vợ, con của Đ vào nghỉ ngơi, còn Đ điều khiển xe mô tô đi vào bản Co Tang, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Khi Đ điều khiển xe mô tô đi vào bản cách đường quốc lộ 6 khoảng 01 Km thì thấy có một chiếc lều bên đường nên rẽ vào để hỏi đường. Tại đây, Đ gặp một người đàn bà khoảng hơn 60 tuổi, mặc quần áo dân tộc Mông. Thấy Đ vào, người đàn bà hỏi Đ đi vào đây làm gì, Đ trả lời đi tìm mua thuốc phiện trắng để dùng mà chưa biết chỗ. Nghe vậy, người đàn bà đó hỏi Đ mua bao nhiêu, đưa tiền đi lấy cho và Đ đã lấy tiền đưa cho người đàn bà đó 5.000.000 (Năm triệu) đồng. Người đàn bà này cầm tiền và bảo Đ ở trong lều đợi, còn bà ta đi bộ vào trong bản. Khoảng 40 phút sau, người đàn bà quay lại đưa cho Đ một gói nilon màu xanh và một gói nilon màu đen. Đ mở gói nilon màu xanh ra thấy bên trong có chứa chất cục bột màu trắng xác định đúng là Heroine và mở gói nilon màu đen thấy bên trong có chứa 08 (Tám) viên Hồng phiến. Sau đó, Đ cậy lấy một ít Heroine và 01 viên Hồng phiến sử dụng luôn cho bản thân bằng hình thức hít. Sau khi sử dụng xong, Đ gói số Heroine còn lại và 07 viên Hồng phiến đem cất vào trong hốc để đồ trên cánh yếm của xe mô tô, rồi quay ra quán nước ven đường quốc lộ 6 đón vợ, con đi về. Đến khoảng 13 giờ 15 phút, ngày 08/6/2019, khi Đ chở vợ, con về đến Km 99+900 quốc lộ 6 thuộc địa phận khu 3, thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Tân Lạc kiểm tra phát hiện bắt quả tang Đ đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Đ đã khai nhận số ma túy đó là Heroine và Hồng phiến của Đ mua ở Vân Hồ - Sơn La về để sử dụng. Tổ công tác đã đưa Đ cùng toàn bộ vật chứng về Công an huyện Tân Lạc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 139/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 14/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

“- 07 viên nén màu hồng trong phong bì niêm phong ghi tên Nguyễn Văn Đ gửi giám định có khối lượng 0,71g (Không phẩy bảy mươi mốt gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì niêm phong ghi tên Nguyễn Văn Đ gửi giám định có khối lượng 17,36g (Mười bảy phẩy ba mươi sáu gam), là ma túy, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 08/01/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến thắc mắc gì về nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Ý kiến của những người tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập:

Đi với người làm chứng là chị Đặng Thu H1. Chị H1 vắng mặt tại phiên tòa, lời khai của chị H1 trong quá trình điều tra thể hiện: Chị H1 là vợ của Nguyễn Văn Đ. Toàn bộ diễn biến sự việc Nguyễn Văn Đ bị Công an huyện Tân Lạc bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 08/6/2019 đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Về việc Đ đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy thì chị H1 không biết.

Đi với người làm chứng là anh Bùi Văn Ng. Anh Ng vắng mặt tại phiên tòa, lời khai của anh Ng trong quá trình điều tra thể hiện: Vào khoảng 13 giờ ngày 08/6/2019, khi anh Ng đang có mặt tại cổng sân vận động cũ của huyện Tân Lạc, nơi tổ công tác của Công an đang làm nhiệm vụ thì thấy tổ công tác ra hiệu lệnh dừng một xe mô tô đi hướng Sơn La - Hòa Bình do một người đàn ông điều khiển, chở phía sau một trẻ em và một phụ nữ để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, anh Ng thấy tổ công tác thu được một một gói nilon màu xanh trong hốc để đồ trên cánh yếm xe, mở ra thấy có chứa chất bột cục màu trắng và một gói nilon màu đen chứa 07 viên nén màu hồng. Trước tổ công tác, người đàn ông này khai tên là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1984, nhà ở VL - Hưng Yên. Về chất bột cục màu trắng cùng 07 viên nén màu hồng là Heroine và Hồng phiến của Đ vừa mua được ở Vân Hồ - Sơn La về để sử dụng cho bản thân. Còn về người phụ nữ và đứa trẻ ngồi sau xe mô tô là vợ và con gái của Đ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo từ 06 (Sáu) năm, 06 (Sáu) tháng tù đến 07 (Bảy) năm tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu toàn bộ khối lượng Heroine và Methamphetamine của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã được niêm phong trong một phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình để tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ một giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Đ; một điện thoại di động nhãn hiệu Itel, đã qua sử dụng; một xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 17M1 - 07xx.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết việc bị cáo đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Lạc thu thập hợp pháp gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 08/6/2019; vật chứng thu được của bị cáo Nguyễn Văn Đ gồm một gói nilon màu xanh, bên trong có lớp nilon màu tím, kế đến là lớp giấy bạc màu trắng, tiếp theo là lớp nilon màu đen có chứa chất bột dạng cục màu trắng và một gói nilon màu đen bên trong có chứa 07 viên nén màu hồng mà bị cáo khai là Heroine và Hồng phiến của bị cáo mua ở Vân Hồ - Sơn La để sử dụng cho bản thân; Kết luận giám định số 139/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 14/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình; các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Đ trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, được chứng minh bằng lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu được, kết luận giám định chất ma túy cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 08/6/2019, bị cáo Nguyễn Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma túy là Heroine và Methamphetamine có tổng khối lượng là 18,07g (Mười tám phẩy không bảy gam). (Trong đó, khối lượng Heroine là 17,36 gam, Methamphetamine là 0,71 gam), nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Xét bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hiểm họa của toàn thể nhân loại, là tệ nạn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức đấu tranh, cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, nhằm loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy, nên bị cáo vẫn cố tình mua và tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Đó là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện chất ma túy, có 03 con đều còn nhỏ, bản thân không có tài gì có giá trị cao, nên đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[7] Đối với người đàn bà mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được tên và địa chỉ của người đàn bà đã bán ma túy cho bị cáo, nên không xem xét xử lý trong vụ án.

[8] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đi với một phong bì được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình niêm phong chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn Đ sau khi đã giám định. Xét đây là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

Đi với một giấy chứng minh nhân dân, một xe mô tô biển kiểm soát 17M1 - 07xx và một điện thoại di động nhãn hiệu Itel của bị cáo. Xét thấy, giấy chứng minh nhân dân và các tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (Sáu) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 08/6/2019).

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu toàn bộ khối lượng Heroine và Methamphetamine của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã được niêm phong trong một phong bì có số KLGĐ 139/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 14/6/2019, tại mép dán có chữ ký của Giám định viên và đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình để tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ một giấy chứng minh nhân dân số 145384202 mang tên Nguyễn Văn Đ do Công an tỉnh Hưng Yên cấp ngày 09/01/2012; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ nhựa màu xanh ghi, đã qua sử dụng, có số IMEI 353511101784907 và 353511101784915; một xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 17M1 - 07xx, số máy F4E4300384, số khung RLSCF4EP0B0100384.

(Các tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng số 07 ngày 09/01/2020).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 21/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về