Bản án 01/2020/HSST ngày 20/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 01/2020/HSST NGÀY 20/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/01/2020 tại Nhà văn hóa tổ dân phố 7, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Lê Viết T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1976, tại: Xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: Thôn Trung H, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Đảng phái: Không; Trình độ học vấn: 7/12. Họ và tên cha: Lê Viết Q - Sinh năm 1953. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị L - Sinh năm 1951. Đều trú tại: thôn Hòa T, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Anh chị em ruột: Có 03 người, Lê Viết T là con thứ nhất Vợ: Bùi Thu H - Sinh năm 1976. Trú tại: Thôn Trung H, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Con: Có 2 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 05/6/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Đánh bạc” theo bản án số 12/2006/HSST; Ngày 22/5/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 23/2008/HSST. Tổng hợp hình phạt bản án số 12/2006/HSST ngày 05/6/2006 của Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh với bản án số 23/2008/HSST ngày 22/5/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh buộc Lê Viết T chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 33 tháng tù. Hiện đã chấp hành xong và đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/11/2019, đến ngày 27/11/2019 thì chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa, sức khỏe bình thường và tự bào chữa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Võ Văn D, sinh ngày: 15/3/1985. Trú tại: Thôn Hồng T, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông (có mặt).

- Chị Bùi Thu H, sinh ngày: 04/11/1976. Trú tại: Thôn Trung H, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Buôn bán (có mặt)

- Chị Nguyễn Thị L, sinh ngày: 02/4/1974. Trú tại: Tổ dân phố Tiên S, phường Trung L, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông (vắng mặt).

* Người làm chứng:

Anh Lê Văn T, sinh năm: 1983. Trú tại: Tổ dân phố Bấn X, phường Trung L, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 25/11/2019 trong lúc đang ở nhà thì Lê Viết T có ý định sử dụng ma túy nên lấy điện thoại của mình, có số thuê bao 0966083983 gọi điện cho người đàn ông tên T1 (thường gọi là T1 L), là người quen biết qua điện thoại từ trước nhưng không rõ đặc điểm nhận dạng cũng như địa chỉ cụ thể, có số điện thoại 0823478714 để hỏi mua ma túy. Lê Viết T nói với T1 “bán cho tôi 3,5 triệu tiền đá” (ý nói bán cho 3.500.000 đồng ma túy tổng hợp dạng đá) được T1 đồng ý và hẹn ra ở thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó, Lê Viết T một mình điều khiển xe mô tô biển biểm soát 38C1- 226.04 đi từ nhà đến thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng hơn 21 giờ cùng ngày, Lê Viết T điều khiển xe mô tô đi đến địa điểm như đã hẹn trên đường Nguyễn Đổng Chi gần nhà thờ Tiếp Võ ở tổ dân phố 6, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thì thấy T1 đi xe mô tô ngược chiều, do trời tối nên không thấy loại xe gì và biển kiểm soát. Lúc này, Lê Viết T quay xe lại đi cùng chiều với T1, khi chạy kịp đến gần Lê Viết T đưa cho T1 số tiền 3.500.000 đồng thì T1 đưa lại cho Lê Viết T 01 bọc được gói bằng ni lông màu trắng, biết bên trong có chứa chất ma túy nên Tg không mở ra kiểm tra mà cầm ở tay trái, rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến khách sạn Hoàng Quân ở tổ dân phố 5, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh để xe ở khu vực nhà xe của khách sạn chuẩn bị vào thuê phòng sử dụng trái phép chất ma túy thì bị lực lượng Công an thị xã Hồng Lĩnh kiểm tra. Do sợ bị phát hiện nên Lê Viết T thả bọc ni lông màu trắng từ tay trái xuống ngay cạnh chỗ đứng, tổ công tác Công an thị xã Hồng Lĩnh yêu cầu Lê Viết T nhặt lên, kiểm tra bọc ni lông màu trắng thấy bên ngoài được bọc bằng ni lông màu trắng, bên trong có một túi ni lông màu trắng, hình chữ nhật, kích thước khoảng 04x08 cm đựng chất tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy. Lê Viết T thừa nhận đó là chất ma túy tổng hợp dạng đá của Lê Viết T vừa mua, cất giấu trên người, mang đến khách sạn Hoàng Quân thuê phòng nghỉ sử dụng thì bị phát hiện. Ngoài ra, kiểm tra trong cốp xe mô tô biển kiểm soát 38C1 - 226.04 do Lê Viết T điều khiển phát hiện có 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, Lê Viết T thừa nhận đó là dụng cụ mang theo để sử dụng chất ma túy. Công an thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang tạm giữ và niêm phong vật chứng có liên quan, yêu cầu đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Ngày 26/11/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh có kết luận giám định số 168/GĐMT-PC09 kết luận: Chất tinh thể rắn màu trắng có trong 01 túi ni lông màu trắng, hình chữ nhật, kích thước 04x08 cm thu giữ của Lê Viết T gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,9600 gam, là Methamphetamine.

* Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh đã thu giữ và xử lý như sau:

- Chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 4,9600 gam đã lấy mẫu giám định hết 0,0900 gam, còn lại 4,8700 gam đã được niêm phong trong 01 phong bì thư, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Viết T và các thành phần có liên quan.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu đen, số IMEI1: 351590101480999, IMEI2: 351591101480997, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T. Quá trình điều tra, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.

- 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu đen, số IMEI1: 810033600632768, IMEI2: 810034600632768, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T sử dụng làm phương tiện liên lạc với người bán ma túy.

Số vật chứng nêu trên đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, sơn màu trắng, biển kiểm soát 38C - 226.04 số khung: RLCL1SK10FY032658, số máy: 1SK1032659, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra, xác định là tài sản của anh Võ Văn D cho Lê Viết T mượn để sử dụng làm phương tiện đi lại nhưng không biết Lê Viết T sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi điều tra làm rõ đã trả lại cho chủ sở hữu.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành hiện đang lưu hành 1.900.000 đồng. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của chị Bùi Thu H (vợ của Lê Viết T) đưa cho Lê Viết T để nộp tiền học cho con không liên quan đến hành vi phạm tội. Sau khi điều tra, làm rõ đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, vật chứng thu giữ như nội dung cáo trạng đã nêu.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS-TXHL ngày 02/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Lê Viết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Viết T từ 36 tháng đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2019.

Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Trường vì bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 4,8700 gam là Methamphetamine đã được niêm phong trong 01 phong bì thư, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Viết T và các thành phần có liên quan; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu đen, số IMEI1: 351590101480999, IMEI2: 351591101480997, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T. Quá trình điều tra, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nhận lại và cho rằng không còn giá trị sử dụng; 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy.

Tch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu đen, số IMEI1: 810033600632768, IMEI2: 810034600632768, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T sử dụng làm phương tiện liên lạc với người bán ma túy.

Đi với: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, sơn màu trắng, biển kiểm soát 38C -226.04, số khung: RLCL1SK10FY032658, số máy: 1SK1032659, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra, xác định là tài sản của anh Võ Văn D cho Lê Viết T mượn để sử dụng làm phương tiện đi lại nhưng không biết Lê Viết T sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành hiện đang lưu hành 1.900.000 đồng. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của chị Bùi Thu H (vợ của Lê Viết T) đưa cho Lê Viết T để nộp tiền học cho con không liên quan đến hành vi phạm tội. Sau khi điều tra, làm rõ đã trả lại cho chủ sở hữu. Vì vậy đề nghị HĐXX miễn xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo tại phiên tòa trình bày lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo Lê Viết T là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy đồng thời gây ảnh hưởng lớn đến trật tự quản lý xã hội trên địa bàn thị xã. Lúc thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã chủ động hoàn toàn, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, động cơ và mục đích phạm tội là thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Với số lượng ma túy thu được là 4,9600 gam là Methamphetamine, thời gian, địa điểm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án vì thế khẳng định hành vi của bị cáo Lê Viết T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Lê Viết T là người đã có vợ và con đã lớn, lẽ ra bị cáo phải ý thức được trách nhiệm của người làm chồng, làm cha, phải tu chí bản thân, phải tìm cho mình một nghề nghiệp lương thiện để có thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân cũng như phụ giúp gia đình, nhưng bị cáo lại không làm vậy, chỉ vì phục vụ cho nhu cầu của cá nhân mà bị cáo đã tìm đến ma túy, không những vậy bị cáo còn tàng trữ để sử dụng dần, vì vậy lại một lần nữa sa vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó bị cáo nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 05/6/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Đánh bạc” theo bản án số 12/2006/HSST; Ngày 22/5/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 23/2008/HSST. Tổng hợp hình phạt bản án số 12/2006/HSST ngày 05/6/2006 của Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh với bản án số 23/2008/HSST ngày 22/5/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh buộc Lê Viết T chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 33 tháng tù. Hiện đã chấp hành xong và đã được xóa án tích. Xét về động cơ, mục đích, tác hại, số lượng ma túy thu được từ bị cáo và nhân thân của bị cáo, vì vậy cần phải lên một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian vừa đủ mới có điều kiện cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ là ông Lê Viết Q được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang; Bộ tư lệnh 559- Binh đoàn Trường Sơn - Bộ quốc phòng tặng Bằng khen và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ông Lê Viết Q đã bị nhiễm chất độc da cam DIOXIN. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng……toàn bộ tài sản” do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo là lao động phổ thông nên thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Những người liên quan trong vụ án: Đối với người đàn ông tên T1, theo lời khai của Lê Viết T là người đã bán 4,9600 gam ma túy Methamphetamin cho Lê Viết T vào đêm 25/11/2019, Lê Viết T khai không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Quá trình giao dịch mua chất ma túy T1 sử dụng số điện thoại 0823478714. Cơ quan CSĐT đã tiến hành điều tra, xác minh chủ thuê bao số điện thoại là Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 trú tại tổ dân phố Tiên S, phường Trung L, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, là người đã đăng ký thông tin cá nhân đối với số thuê bao 0823478714. Cách đây khoảng 3 tháng trước chị Nguyễn Thị L đã làm mất máy điện thoại, sim có số thuê bao 0823478714 và không đăng ký sử dụng lại sim có số thuê bao 0823478714 nữa, hiện nay số thuê bao 0823478714 người nào sử dụng thì Nguyễn Thị L không biết. Trong quá trình trình sinh sống tại địa phương chị Nguyễn Thị L cũng không quen biết người đàn ông nào tên T1. Xác minh tại địa bàn thị xã Hồng Lĩnh xác định không có người nào tên T1 có đặc điểm nhận dạng như bị cáo Lê Viết T miêu tả, vì vậy không đủ thông tin để tiến hành điều tra, xử lý người này theo quy định của pháp luật. Đối với anh Võ Văn D, sinh năm 1985, thường trú tại thôn Hồng T, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh là người cho Lê Viết T mượn xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu sơn trắng, biển kiểm soát 38C1 - 226.04 làm phương tiện đi lại. Quá trình điều tra, xác định lúc cho mượn xe mô tô Võ Văn D không biết Lê Viết T sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi vi phạm. Đối với chị Bùi Thu H, sinh năm 1976, trú tại Thôn Trung H, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh là vợ của bị cáo Lê Viết T, trước đó có đưa cho Lê Viết T số tiền 1.900.000 đồng để nộp tiền học cho con nhưng Lê Viết T đã cầm số tiền đó cùng tiền của mình đi ra thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mua chất ma túy để sử dụng. Quá trình điều tra, xác định Lê Viết T không sử dụng số tiền 1.900.000 đồng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý đối với chị Nguyễn Thị L, anh Võ Văn D và chị Bùi Thu H, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về vật chứng: Cần áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 4,8700 gam là Methamphetamine đã được niêm phong trong 01 phong bì thư, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Viết T và các thành phần có liên quan; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu đen, số IMEI1 351590101480999, IMEI2: 351591101480997, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T. Quá trình điều tra, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nhận lại, và cho rằng không còn giá trị sử dụng; 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy.

Tch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu đen, số IMEI1: 810033600632768, IMEI2: 810034600632768, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T sử dụng làm phương tiện liên lạc với người bán ma túy. Đối với các vật chứng sau khi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đã điều tra làm rõ, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội đã trả lại cho chủ sở hữu, vì vậy HĐXX miễn xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Viết T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Viết T 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 4,8700 gam là Methamphetamine đã được niêm phong trong 01 phong bì thư, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Viết T và các thành phần có liên quan; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu đen, số IMEI1: 351590101480999, IMEI2: 351591101480997, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T. Quá trình điều tra, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nhận lại và cho rằng không còn giá trị sử dụng; 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy.

Tch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu đen, số IMEI1: 810033600632768, IMEI2: 810034600632768, đã qua sử dụng là tài sản của Lê Viết T sử dụng làm phương tiện liên lạc với người bán ma túy (tất cả vật chứng trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh ngày 02/01/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Viết T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, những người trên vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HSST ngày 20/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về