Bản án 01/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUÝ, TỈNH BÌNH THUẬN

BN ÁN 01/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/HSST, ngày 20 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quang Th (L) - Sinh năm: 1985.

Nơi đăng ký HKTT và trú tại: Thôn ĐH, xã LH, huyện PQ, tỉnh BTh; Nghề nghiệp: Làm biển; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Kh và bà Võ Thị D; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Trương Thị Kim Ph và có 03 con, lớn nhất 07 tuổi, nhỏ nhất sinh ngày 05/3/2020; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 27/11/2019, hiện đang tạm giam tại cơ sở giam giữ Công an huyện PQ, tỉnh BTh.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Thành C (S) - sinh năm 1996.

Nơi đăng ký HKTT và trú tại: Thôn MK, xã TT, huyện PQ, tỉnh BTh; Nghề nghiệp: Làm biển; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn H và bà Võ Thị Th; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Vợ: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 27/11/2019, hiện đang tạm giam tại cơ sở giam giữ Công an huyện PQ, tỉnh BTh. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

3. Nguyễn Minh Kh (T) - sinh năm 1999.

Nơi đăng ký HKTT và trú tại: Thôn QTh, xã NP, huyện PQ, tỉnh BTh; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ học vấn: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Hữu B và bà Trần Thị B; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 27/11/2019, hiện đang tạm giam tại cơ sở giam giữ Công an huyện PQ, tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị Kim L - Sinh năm 1989 (vắng mặt);

2. Chị Trần Thị Liên Ch - Sinh năm 1992 (vắng mặt);

Cùng trú tại: Thôn MK, xã TT, huyện PQ, tỉnh BTh.

3. Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm: 1994 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn TH, xã LH, huyện PQ, tỉnh BTh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/11/2019, tại phòng trọ số 04 nhà trọ 79 thuộc thôn MK, xã TT, huyện PQ, tỉnh BTh do Trần Thị Kim L (sinh năm 1989), thường trú tại ấp ThT, xã Th Đ, huyện TH, tỉnh KG thuê ở. Nguyễn Quang Th (tên gọi khác là L) sinh năm 1985, cư trú tại thôn ĐH, xã LH, huyện PQ, đã thỏa thuận với Nguyễn Thành C (tên gọi khác là S) sinh năm 1996, cư trú thôn MK, xã TT cùng góp tiền, mỗi người 1.200.000 đồng để mua ma túy về sử dụng, Th không mang tiền nên C cho Th mượn, việc Th và C góp tiền mua ma túy thì L không biết. Sau đó, C liên lạc với Nguyễn Minh Kh (tên gọi khác là T) sinh năm 1999, cư trú ở QTh, xã NP, huyện PQ, tỉnh BTh để mua ma túy với giá 2.400.000 đồng và hẹn lấy ma túy vào ngày 25/11/2019. Đến trưa ngày 24/11/2019, Kh đến phòng trọ số 04 nhà trọ 79 gặp C lấy tiền, việc giao nhận tiền thì Th và L không nhìn thấy. Ngày 25/11/2019, Kh vẫn chưa có ma túy để giao như đã thỏa thuận.

Nguyễn Minh Kh, sau khi nhận tiền từ C đã liên hệ mua ma túy từ một người tên là MT, không rõ nhân thân, lai lịch. Vào ngày 26/11/2019, Kh xuống cảng PQ, lên tàu Superdong II lấy một bao màu vàng có hai trái mít mang về nhà trọ TĐ, thôn MK, xã TT và kiểm tra. Khi kiểm tra bên trong thì Kh phát hiện một túi ni lông trong suốt được bịt kín, bên trong có chứa chất ma túy và 09 túi ni lông nhỏ hơn được bịt kín riêng biệt, bên trong mỗi túi nhỏ này cũng có chứa chất ma túy. Kh lấy ra 09 túi ni lông nhỏ chứa ma túy cất giấu riêng, phần còn lại thì mang đến giao cho C. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Kh đến phòng trọ số 04 nhà trọ số 79 thì gặp C, Th và L nên đã để túi ni lông chứa ma túy xuống thềm trước mặt Th và nói “Đồ của thằng S đây”. Thấy vậy, Th cấm túi ni lông chứa chất ma túy lên nói: “Làm gì ít dữ”. Kh trả lời: “Ừ ít”. Sau đó, Kh xin một ít và được Th đồng ý. Đến khoảng hơn 21 giờ ngày 26/11/2019, khi C, Th đang sử dụng ma túy cùng với các đối tượng Trần Thị Kim L, Trần Thị Liên Ch (sinh 1992), tạm trú: thôn HA, xã TT, huyện PQ và Nguyễn Văn H (sinh năm 1994) cư trú ở thôn TH, xã LH, thì bị công an huyện PQ bắt quả tang. Thu giữ tại hiện trường 01 túi ni lông trong suốt, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 bình ma túy tự chế, bằng nhựa, hình trụ có nắp, trên nắp có gắn một ống hút nước bằng nhựa màu trắng, có chiều dài khoảng 40 cm, 01 đoạn ống thủy tinh đã uống cong được gắng trên nắp chai nhựa màu xanh; 30 cái bật lửa đã qua sử dụng và 01 ống thủy tinh hình tròn, dài khoảng 10 cm.

Đi với Nguyễn Minh Kh, sau khi giao ma túy xong, Kh đi tới nhà trọ PhD thuộc thôn MK, xã TT, huyện PQ, rồi đi sang bãi đất trống sát bên tường nhà trọ Kh lấy túi ni lông chứa chất ma túy vừa xin được bỏ vào trong túi ni lông, bên trong có sẵn 09 túi ni lông nhỏ hơn có chứa chất ma túy cất giấu để có ai mua thì bán. Xong đâu đó, Kh đi lên phòng trọ số 202 thuộc nhà trọ PhD, của người bạn gái tên là Trần Thị Quỳnh Ph (sinh 1990), tạm trú thôn MK, xã TT, huyện PQ, tỉnh BTh thuê để nghỉ, thời điểm này không có Ph ở phòng trọ. Đến khoảng 22 giờ 10 phút ngày 26/11/2019, lực lượng Công an huyện PQ tiến hành kiểm tra hành chính nhà trọ PhD và phát hiện được số ma túy mà Kh đã cất giấu. Thu giữ của Nguyễn Minh Kh: 01 túi ni lông trong suốt bên trong có chất tinh thể màu trắng, trong đó có 09 gói ni lông có kích thước (3,5 x 01) cm và 01 gói ni lông có kích thước (2,5 x 01) cm; 01 bình thủy tinh trong suốt, màu xanh, bên trên có 02 ống thủy tinh hình trụ; 01 đôi tất bằng vải màu đen; 02 ống thủy tinh trong suốt; 02 khẩu trang y tế màu xanh.

Ngày 27/11/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện PQ đưa các đối tượng gồm: Nguyễn Minh Kh, Nguyễn Quang Th, Nguyễn Thành C, Nguyễn Văn H, Trần Thị Kim L, Trần Thị Liên Ch đến Trung tâm y tế Quân dân y huyện Phú Quý xét nghiệm; Kết quả xác định các đối tượng nêu trên đều dương tính với Methamphetamine (chất Ma túy).

- Tại Bản kết luận giám định số 1070/KLGĐ-PC09 ngày 30/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BTh kết luận: 01 túi ni lông, bên trong túi ni lông có chứa chất tinh thể màu trắng (Ký hiệu M), được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên: Tạ Minh T, Đặng Ngọc T, Nguyễn Quang Th, Nguyễn Thành C và hình dấu tròn của Công an huyện PQ gửi đến giám định có chứa thành phần là Methamphetamine (chất ma túy). Khối lượng là 0,9502 gam, sau khi giám định còn 0,6314 gam.

- Tại Bản kết luận giám định số 1071/KLGĐ-PC09 ngày 30/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BTh kết luận:

Phong bì được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên: Đỗ L, Đỗ Thị PhD, Đỗ Văn H, Nguyễn Minh Kh và hình dấu tròn của Công an huyện PQ. Trong phong bì có 01 túi ni lông kích thước (05 x 04)cm, bên trong chứa 10 gói ni lông nhỏ trong suốt, được hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng gửi đến giám định có chứa thành phần là Methamphetamine (chất ma túy). Khối lượng là 1,1896 gam, sau khi giám định còn 0,7913 gam.

Tại bản cáo trạng số 01/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 08/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ truy tố Nguyễn Quang Th và Nguyễn Thành C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Truy tố Nguyễn Minh Kh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ, tỉnh BTh thực hành quyền công tố phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo; đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Th và Nguyễn Thành C mỗi bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh Kh từ 24 đến 30 tháng tù;

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên; đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ, tỉnh BTh nhưng xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình, địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện PQ, Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Quang Thh; Nguyễn Thành C; Nguyễn Minh Kh có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 26/11/2019; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng; biên bản mở niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định số 1070 và 1071/KLGĐ-PC09 ngày 30/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BTh; lời khai của người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Tối ngày 26/11/2019, bị cáo Nguyễn Quang Th và bị cáo Nguyễn Thành C đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine (ma túy đá), khối lượng 0,9502 gam với mục đích để sử dụng;

Nguyễn Minh Kh đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, loại ma túy đá với khối lượng 2,1398 gam (0,9502 gam bán cho Th và C; 1,1896 gam cất giấu ở nhà trọ PhD) thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn huyện đảo PQ, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Quang Th, Nguyễn Thành C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); hành vi Nguyễn Minh Kh đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 01 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ, tỉnh BTh truy tố các bị cáo về tội danh nói trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị cáo Nguyễn Thành C và Nguyễn Minh Kh có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; bị cáo Nguyễn Quang Th là lao động chính trong gia đình, gia đình có 03 con còn nhỏ, khó khăn về kinh tế (có giấy xác nhận của địa phương xã LH) nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01, 02 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cố ý do đó cần phải xét xử bằng bản án nghiêm khắc, buộc các bị cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

Đi với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy" của ba đối tượng Trần Thị Kim L, Trần Thị Liên Ch và Nguyễn Văn H chỉ là hành vi vi phạm hành chính, được quy định tại Khoản 1 Điều 21 Nghị Định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Ngày 18/02/2020, Công an huyện PQ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (750.000 đồng) đối với Trần Thị Kim L, Trần Thị Liên Ch và Nguyễn Văn H về hành vi vi phạm nêu trên là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về phía ông Mai Văn T, chủ nhà trọ 79, là người có trách nhiệm quản lý cơ sở cho thuê lưu trú nhưng lại để cho người khác lợi dụng sử dụng chất ma túy trong khu vực mình quản lý, đã vi phạm vào điểm a khoản 4 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Do đó, ngày 19/02/2020, Chủ tịch UBND huyện PQ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (7.500.000 đồng) đối với ông Mai Văn T là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Riêng đối tượng MT (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho Nguyễn Minh Kh để Kh bán lại cho Nguyễn Thành C và Nguyễn Quang Th. Trong tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Minh Kh không khai báo thêm tình tiết mới; nên chưa đủ cơ sở để xử lý, vì vậy Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Nguyễn Quang Th, Nguyễn Thành C tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời, gia đình khó khăn về kinh tế; bị cáo Nguyễn Minh Kh mua ma túy ở đất liền về để bán với mục đích kiếm lời nhưng bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Tch thu tiêu hủy 0,6314 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 1070/KLGĐ-PC09 và 0,7913 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 1071/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BTh; 01 bình thủy tinh trong suốt, màu xanh, bên trên có 02 ống thủy tinh hình trụ; 01 đôi tất bằng vải màu đen; 02 ống thủy tinh trong suốt; 02 khẩu trang y tế màu xanh; 01 bình ma túy tự chế, bằng nhựa, hình trụ có nắp, trên nắp có gắn một ống hút nước bằng nhựa màu trắng, có chiều dài khoảng 40 cm, 01 đoạn ống thủy tinh đã uống cong được gắn trên nắp chai nhựa màu xanh; 30 cái bật lửa đã qua sử dụng và 01 ống thủy tinh hình tròn, dài khoảng 10 cm. Riêng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, có sim số 0911577175, kèm theo ốp lưng điện thoại di động; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, có sim số 0862286833; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội cần phải tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quang Th; Nguyễn Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 01 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổ, bổ sung năm 2017).

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang Th 12 (Mười hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2019.

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành C 12 (Mười hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2019.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Kh phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 01 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổ, bổ sung năm 2017).

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh Kh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2019.

- Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổ, bổ sung năm 2017) và khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tch thu tiêu hủy 0,6314 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 1070/KLGĐ- PC09 và 0,7913 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 1071/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bình thủy tinh trong suốt, màu xanh, bên trên có 02 ống thủy tinh hình trụ; 01 đôi tất bằng vải màu đen; 02 ống thủy tinh trong suốt; 02 khẩu trang y tế màu xanh; 01 bình ma túy tự chế, bằng nhựa, hình trụ có nắp, trên nắp có gắn một ống hút nước bằng nhựa màu trắng, có chiều dài khoảng 40 cm, 01 đoạn ống thủy tinh đã uống cong được gắn trên nắp chai nhựa màu xanh; 30 cái bật lửa đã qua sử dụng và 01 ống thủy tinh hình tròn, dài khoảng 10 cm.

Tch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, có sim số 0911577175, kèm theo ốp lưng điện thoại di động; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, có sim số 0862286833; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội (tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/3/2020 gia Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện PQ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện PQ, tỉnh BTh).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 01 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/5/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

Số hiệu:01/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Quí - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về