Bản án 01/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 12/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 02 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXX-HS ngày 30/01/2020 đối với bị cáo:

Trần Văn Q, sinh năm 1957, Nơi cư trú: khu dân cư L, phường L1, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam: con ông Trần Văn Hào(đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); bị cáo có vợ Nguyễn Thị L2, sinh năm 1958 và có hai con, con lớn sinh năm 1983, con nhỏ sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 21/12/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1. Ông Đỗ Văn Q, sinh năm 1972. Vắng mặt

2. Bà Nguyễn Thị L3, sinh năm 1958. Có mặt

Đều có địa chỉ: khu dân cư L, phường L1, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 7 giờ ngày 19/12/2019, Trần Văn Q đi xe ôm của một người không quen biết từ thị xã Kinh Môn đến khu vực ga Dụ Nghĩa thuộc thành phố Hải Phòng để tìm mua chất ma túy về sử dụng. Tại đây Q gặp một người đàn ông không rõ tên tuổi và địa chỉ hỏi và mua được 01 gói ma túy loại Heroine với giá 2.000.000 đồng rồi bắt xe ôm đi về nhà. Tại nhà, Q bỏ gói ma túy đã mua được kiểm tra thấy bên trong có 43 gói giấy bạc nhỏ đều chứa chất ma túy; Q lấy 01 gói ra sử dụng, còn 36 gói cho vào lọ nhựa giấu tại đầu giường trong phòng ngủ và để 6 gói ma túy vào túi quần bên phải đang mặc trên người. Khoảng 17 giờ cùng ngày khi Q đang đứng ở đường khu dân cư L, phường L1, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (gần với nhà ở của mình) thì bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã Kinh Môn phối hợp với Công an phường L1 kiểm tra phát hiện, kiểm tra và thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc của Q 06 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong ký hiệu M1), ngoài ra số ma túy bị phát hiện và bị thu giữ, Q còn tự khai nhận và giao nộp cho lượng Công an 01 lọ nhựa hình trụ màu trắng dán nhãn AVONZA bên trong có 36 gói giấy bạc đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong ký hiệu M2). Q khai nhận, toàn bộ 06 gói giấy bạc công an phát hiện, thu giữ và 36 gói giấy bạc đựng trong lọ nhựa Q giao nộp đều là ma túy, loại Heroin. Toàn bộ số ma túy, Q cất giấu nhằm mục đích sử dụng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kinh Môn không thu giữ vật chứng nào khác.

Tại Kết luận giám định số 31/KLGĐ-PC09 ngày 22/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu của Trần Văn Q, gửi đến giám định tổng khối lượng là: 0,221g, là ma túy loại Heroine; Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M2, ghi thu tại phòng ngủ của Trần Văn Q, gửi đến giám định tổng khối lượng là 1,548g, là ma túy loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục I, STT: 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ. Hoàn lại đối tượng giám định 1,499gam.

Quá trình điều tra, Trần Văn Q thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 02/CT - VKS ngày 20/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố bị cáo Trần Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Cáo trạng VKSND thị xã Kinh Môn đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xet đến tình trạng sức khỏe của bị cáo, bản thân bị cáo bị HIV và bị viêm gan c đã chuyển sang sơ gan, sức khỏe của bị cáo rất yếu nên bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm có cơ hội trở về nhà để chữa bệnh.

- Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; xem xét nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 249; điểm s, t, x khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn Q từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 21/12/2019.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy trong vụ án (mẫu ma túy hoàn lại sau giám định), mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 31/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương.

- Án phí: Khi phạm tội bị cáo đã trên 60 tuổi là người cao tuổi theo Luật người cao tuổi, theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Kinh Môn; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Q, khai nhận bị cáo là người nghiện ma túy từ năm 1999, do nghiện ma túy nên bị cáo đã bị HIV dẫn đến sức khỏe yếu và phải lệ thuộc vào ma túy, bị cáo thừa nhận 06 gói ma túy thu giữ của bị cáo và 01 lọ nhựa bên trong chứa 36 gói ma túy đã giao nộp là của bị cáo, toàn bộ số ma túy bị cáo cất giấu với mục đính để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản vụ việc; Biên bản niêm phong và Kết luận của cơ quan giám định, cũng như tang vật chứng đã thu giữ.

Đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 19/12/2019 tại khu dân cư L, phường L1, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, Trần Văn Q đã có hành vi cất giấu tại túi quần bên phải đang mặc 06 gói ma túy loại Heroin, có trọng lượng 0,221gam, với mục đích sử dụng. Ngoài ra bị cáo còn có hành vi cất giấu tại lọ nhựa hình trụ dán nhãn AVONZA 36 gói ma túy, loại Heroin, có trong lượng 1,548gam với mục đích để sử dụng. Tổng trọng lượng ma túy bị cáo cất giấu nhằm mục đích để sử dụng là 1,769 gam. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng không những gây tác hại cho sức khoẻ, mà còn làm suy thoái phẩm giá con người, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên bị cáo hoàn toàn thấy được tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, nhận thức được ma túy là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán,... xong do coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Do vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi bị cáo đã thực hiện và cách ly khỏi bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét đến tình trạng sức khỏe, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4]Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Sau khi hành vi cất giấu 06 gói ma túy bị phát hiện, bị cáo đã tự khai nhận về hành vi cất giấu 36 gói ma túy và tự nguyện giao nộp cho Công an số ma túy bị cáo đang cất giấu, hành vi tự khai nhận và giao nộp số ma túy mà bị cáo cất giấu tại chỗ ở của bị cáo, thể hiện thái độ tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án, thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên bị cáo được áp dụng tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Mặt khác, bị cáo và chị gái của bị cáo là Trần Thị L4 đều là những người có công trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bản thân bị cáo và những người thân của bị cáo gồm: bố, mẹ đẻ, chị gái của bị cáo được Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng “Bảng gia đình vẻ vang” vì đã có công trong kháng kiến chống Mỹ cứu nước nên bị cáo còn được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung:Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thuộc diện người cao tuổi, là đối tượng sử dụng ma túy, sức khỏe yếu và không có thu nhập nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ trong vụ án, sau khi giám định thì Cơ quan giám định hoàn lại mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 31/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu cho tiêu hủy.

Đi với 01 lọ nhựa hình trụ tròn bên ngoài in chữ AVONA (đã qua sử dụng), là lọ bị cáo sử dụng để đựng 36 gói ma túy, xác định không có giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

Theo lời khai của bị cáo, sau khi đi mua ma túy về, bị cáo đã lấy ra một gói ma túy ra sử dụng. Ti biên bản V/v dùng thành thử để kiểm tra nồng độ Heroin xác định: Trần Văn Q dương tính với Heroin. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Kinh Môn đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính số 44/QDD-XLHC đối với Trần Văn Q về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

Đi với đối tượng bán trái phép ma túy và người chở xe ôm cho bị cáo. Quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể của các đối tượng này nên cơ quan CSĐT Công an thị xã Kinh Môn không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

Án phí: Tính đến ngày bị cáo phạm tội, bị cáo đã trên 60 tuổi là người cao tuổi theo Luật người cao tuổi và tại phiên tòa bị cáo có đề nghị được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điêm đ Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào:

+ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

+ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật người cao tuổi 2009.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 21(hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 21/12/2019.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu và tiêu hủy số ma túy trong vụ án (mẫu ma túy hoàn lại sau giám định), mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 31/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương.

+ Tịch thu cho tiêu hủy 01 lọ nhựa hình trụ tròn bên ngoài in chữ AVONA (đã qua sử dụng).

(Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/02/2020 giữa Công an thị xã Kinh Môn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn).

- Án phí: Bị cáo Trần Văn Q không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo:Án xử công khai sơ thẩm; có mặt bị cáo. Đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về