Bản án 01/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 11/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11 tháng 01 năm 2019, tại nhà văn hoá xã Quảng Lạc, xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn mở phiên tòa lưu động xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 239/2018/TLST- HS ngày 24/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 249/2018/QĐXXST- HS ngày 28/12/2018 đối với bị cáo:

Đào Hồng D (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 06/6/1986 tại huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 285 đường T 2, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Hồng T, sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị T (đã chết năm 2011); có vợ Hoàng Thị H và 01 con sinh năm 2010.

Nhân thân: Ngày 29/8/2007, bị đưa vào cơ sở giáo dục 02 năm về hành viTrộm cắp tài sản (đã được xóa); tiền án: Tại bản án số: 18/2011/HSST ngày 10/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xét xử bị cáo 07 năm tù về tộiCố ý gây thương tích (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/10/2018, tạm giam từ ngày 25/10/2018 tại nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Ông Hứa Văn T, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Thôn Q 2, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lý Văn T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Xóm B, thôn Q 1, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h00 ngày 23/10/2018, ông Hứa Văn T đến quán của anh Lý Văn T ngồi uống rượu một mình; đến khoảng 17h30, Đào Hồng D đi từ phòng hát ra bàn ông Hứa Văn T đang ngồi để uống nước, trước đó Đào Hồng D đã sử dụng rượu cùng bạn. Tại bàn uống nước, Đào Hồng D và ông Hứa Văn T cãi chửi, dành nhau hút thuốc lào; do bực tức, Đào Hồng D đã dùng tay phải cầm điếu cày bằng tre màu vàng dài khoảng 60-70cm đặt cạnh bàn uống nước, đập 02 phát liên tiếp từ trên xuống trúng vào đầu ông Hứa Văn T; ống điếu cày vỡ nên Đào Hồng D vứt xuống cạnh bàn, tiếp tục xông vào dùng 02 tay túm tóc, đè đầu, rồi dùng đầu gối trái thúc 01 phát vào bụng ông Hứa Văn T. Thấy vậy, anh Lý Văn T can ngăn rồi đẩy Đào Hồng D ra khỏi quán; ông Hứa Văn T được đưa đến Bệnh viện đa khoa để cấp cứu, điều trị.

Tại Bản kết luận Giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số: 344/2018/TgT ngày 15/11/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Lạng Sơn kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Hứa Văn T gồm 02 sẹo vết sây xước, tỷ lệ: 03%; chấn động não, tỷ lệ: 05%. Tổng tỷ lệ: 08%.

Tại bản Cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 24/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Đào Hồng D về Tội cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại ông Hứa Văn T trình bày sự việc đúng như bị cáo khai nhận và yêu cầu bồi thường tiền công làm thợ xây: 250.000đ/ngày x 20 ngày công = 5.000.000đ, tiền thuốc điều trị vết thương 3.000.000đ, tiền bồi thường tổn thất tinh thần 3.000.000đ; tổng cộng 11.000.000đ (mười một triệu đồng).

Tại phiên tòa, trong phần luận tội, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố Đào Hồng D phạm Tội cố ý gây thương tích, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng là công cụ phạm tội, các đồ vật không có giá trị sử dụng. Công nhận sự thỏa thuận bồi thường của các đương sự tại phiên tòa. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện sự ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với bản kết luận giám định pháp y về thương tích và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Xác định Đào Hồng D có hành vi dùng điếu cày là hung khí nguy hiểm đánh 02 phát liên tiếp vào đỉnh đầu và dùng đầu gối thúc vào bụng gây thương tích cho ông Hứa Văn T, tổng tỷ lệ là 08%. Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thể hiện hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất an trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đào Hồng D phạm Tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Để quyết định mức, cách thức thực hiện hình phạt ngoài việc xem xét, đánh giá tính chất, phân hóa mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt, năm 2007 bị đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản (đã được xóa) và năm 2011 bị xử phạt 07 năm tù về tội Cố ý gây thương tích (chưa được xóa án tích) nhưng không hối cải, không rèn luyện tu dưỡng bản thân, tiếp tục thực hiện cùng loại tội phạm, thể hiện ý thức coi thường, bất chấp pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số: 18/2011/HSST ngày 10/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xét xử bị cáo 07 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành phần bồi thường dân sự, chưa được xóa án tích; do đó lần pham tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa bị cáo có ý thức tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ yêu cầu của bị hại nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 (mức độ giảm nhẹ không nhiều) Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Từ những đánh giá, phân tích nêu trên thấy rằng mặc dù bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tình tiết tăng nặng nên cần ấn định hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự. Tại phiên tòa, các đương sự đã thống nhất, thỏa thuận: Bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại tổng số tiền 11.000.000đ bao gồm, tiền viện phí, thuốc điều trị 3.000.000đ; tiền mất thu nhập ngày công lao động trong 24 ngày điều trị 5.000.000đ; tiền bồi thường tổn thất tinh thần 3.000.000đ. Việc thỏa thuận giữa các đương sự là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp quy định pháp luật dân sự nên cần tôn trọng quyền quyết định, tự định đoạt và công nhân sự thoả thuận của các đương sự.

[9] Về xử lý vật chứng gồm 02 thanh tre, 01 nõn điếu là hung khí gây án vàkhông còn giá trị sử dụng; cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với số tiền phải bồi thường 11.000.000đ x 5% = 550.000đ theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

[11] Đề nghị trong lời nói sau cùng của bị cáo đã được Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình nghị án và cân nhắc khi quyết định hình phạt.

[12] Bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh và hình phạt.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 (01 tình tiết) Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đào Hồng D phạm Tội cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Đào Hồng D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/10/2018.

2. Nghĩa vụ dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 586, Điều 590 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; bị cáo Đào Hồng D có trách nhiệm, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại ông Hứa Văn T tổng số tiền 11.000.000đ (mười một triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thanh tre kích thước 0,64m x 0,03m; 01 (một) thanh tre kích thước 0,64 x 0,05m; 01 (một) nõn điếu bằng kim loại dài 07cm, đường kính miệng nõn 04cm.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, có đặc điểm như được mô tả trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/10/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đào Hồng D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 550.000đ (Năm trăm, năm mươi nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm có giá ngạch để nộp ngân sách Nhà nước

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm; có mặt bị cáo, bị hại, báo cho những người có mặt được biết có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về