Bản án 01/2019/DS-ST ngày 16/04/2019 về tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán tài sản)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN UH - TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 01/2019/DS-ST  NGÀY 16/04/2019 VỀ TRANH CHẤP NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN)

Ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện UH xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 10/2019/TLST-DS ngày 11 tháng 3 năm 2019 về Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán trong Hợp đồng mua bán tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1975

Nơi ĐKHKTT: thôn DD, xã ĐH, huyện UH, thành phố Hà Nội

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N - sinh năm 1968

Nơi ĐKHKTT: thôn CM, xã TL, huyện UH, thành phố Hà Nội

* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Tô Văn V - sinh năm 1971.

Nơi ĐKHKTT: thôn DD, xã ĐH, huyện UH, thành phố Hà Nội

+ Chị Lê Thị U - sinh năm 1965.

Nơi ĐKHKTT: thôn CM, xã TL, huyện UH, thành phố Hà Nội.

(Anh N, chị U có đơn xin vng mặt; anh V, chị H có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, Biên bản ly lời khai, Biên bản hòa giải có trong hồ sơ vụ án - nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: ông N có mua cám cò chăn nuôi của vợ chồng chị từ khoảng tháng 9/2017 cho đến tháng 3/2018, giữa hai bên mua bán diễn ra rất nhiều lần và đến ngày 25/3/2018 hai bên đã chốt công nợ thì anh N còn nợ vợ chồng chị tổng số tiền mua cám cò là 63.580.000 đồng, việc chốt nợ này được ghi chép đầy đủ trong sổ sách của chị có đầy đủ chữ ký của anh N. Việc mua bán giữa hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng về giá cả hay thời gian trả nợ, khi nào anh N mua cám của nhà chị thì có ký nhận vào sổ về việc nhận số lượng cám và giá tiền. Anh N mua cám cò của vợ chồng chị về để chăn nuôi trang trại đa canh của gia đình anh N, việc này vợ con anh N cũng biết và chứng kiến. Sau ngày chốt lại công nợ nêu trên thì đến ngày 29/6/2018 anh N đã trả được cho vợ chồng chị số tiền 10.000.000 đồng, khoảng tháng 7/2018 anh N tiếp tục trả cho vợ chồng chị số tiền 5.000.000 đồng. Như vậy, tổng cộng vợ chồng anh N đã trả nợ cho vợ chồng chị được 15.000.000 đồng, hiện còn nợ lại 48.580.000 đồng. Vợ chồng chị đã rất nhiều lần đến nhà gặp anh N yêu cầu anh N trả nợ nhưng anh N không trả, còn có hành vi nhốt chồng chị - anh V ở trong nhà anh N để gọi người đánh, dùng dao dọa ép chồng chị phải viết giấy đã hết nợ nhưng chồng chị cương quyết không viết.

Nay để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chị làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện UH đề nghị buộc anh Nguyễn Văn N trả ngay cho chị số tiền 48.580.000 đồng nợ gốc (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn) tiền mua cám cò chăn nuôi của chị như đã nêu trên. Về khoản tiền nợ lãi chị không không yêu cầu anh N phải trả.

Tại Biên bản ly lời khai và Biên bản hòa giải có trong hồ sơ vụ án - ông Nguyễn Văn N trình bày: ông thừa nhận hiện nay ông còn nợ tiền mua cám cò của vợ chồng chị H anh V số tiền 48.580.000 đồng (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn). Do kinh tế gia đình gặp khó khăn nên hiện nay ông không có tiền để trả nợ vợ chồng chị H anh V, ông đề nghị Toà án và vợ chồng anh V chị H tạo điều kiện cho ông thêm giời gian khoảng một năm rưỡi nữa ông sẽ thu xếp trả đủ tiền cho vợ chồng chị H anh V. Về số tiền lãi ông xin vợ chồng anh V chị H bỏ qua cho.

Tại Bản tự khai, Biên bản ly lời khai và Biên bản hòa giải có trong hồ sơ vụ án, người có quyền lợi và nghĩa V liên quan - anh V trình bày: anh hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của chị H là vợ anh nêu trên. Anh yêu cầu anh N có nghĩa vụ thanh toán trả nợ cho vợ chồng anh số tiền nợ gốc còn nợ nêu trên là 48.580.000 đồng (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn).

Tại Bản tự khai, Biên bản ly lời khai và Biên bản hòa giải có trong hồ sơ vụ án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - bà U trình bày: bà hoàn toàn nhất trí với nội dung trình bày của ông N là chồng bà như nêu trên. Vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn bà mong vợ chồng anh V chị H giãn nợ cho vợ chồng bà. Về số tiền nợ lãi bà xin anh V chị H bỏ qua cho.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày. Tại đơn xin xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng trình bày giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện UH phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Căn cứ các quy định pháp luật đề nghị Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn Văn N: Buộc ông Nguyễn Văn N phải thanh toán cho chị Nguyễn Thị H số tiền nợ gốc 48.580.000đ (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn).

2. Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp trong vụ án này là Hợp đồng mua bán cám cò giữa chị Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Văn N. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân dân Tối cao hướng dẫn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; chị Nguyễn Thị H khởi kiện theo quy định của pháp luật nên Tòa án nhân dân huyện UH thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền; ông Nguyễn Văn N có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông N theo quy định Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Việc mua bán cám cò giữa vợ chồng chị H anh V với vợ chồng ông N bà u diễn ra từ tháng 9/2017 đến tháng 3/2018, thông qua hình thức giao nhận trực tiếp, có chữ ký của bên mua cám (ông N) vào sổ ghi chép công nợ nhận hàng để xác nhận số lượng hàng nhận, giá tiền và thành tiền là bao nhiêu; sau khi thu hoạch trang trại ông N sẽ thanh toán tiền với vợ chồng chị H, anh V. Chị H và ông N đều thừa nhận hai bên đã đối chiếu công nợ vào ngày 25/3/2018 ông N còn nợ tiền mua cám cò của vợ chồng chị H, anh V số tiền là 63.580.000 đồng, sau một thời gian ông N đã trả được cho chị H anh V số tiền 15.000.000 đồng và hiện còn nợ lại 48.580.000đồng (Bn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn). Như vậy, việc mua bán cám cò giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán nguyên đơn, bị đơn đều có đủ năng lực giao kết hợp đồng nên việc mua bán trên là hợp pháp. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên bán - chị H anh V đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng của mình nhưng bên mua - ông N không thực hiện nghĩa vụ thanh toán sau khi có chốt công nợ mặc dù đã được nguyên đơn nhắc nhở nhiều lần. Như vậy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán cám cò.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ thanh toán ngay khoản nợ gốc 48.580.000 đồng (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn), về số tiền lãi nguyên đơn không yêu cầu.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự, cần xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn N phải có nghĩa vụ thanh toán, trả nợ cho vợ chồng chị Nguyễn Thị H số tiền 48.580.000 đồng (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng).

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Hoàn trả chị Nguyễn Thị H 1.214.000đ án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại biên lai số 0009017 ngày 13/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Hòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 430 và 440 và Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 03/2012/NQ - HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân dân Tối cao hướng dẫn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc “Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán trong Hợp đồng mua bán tài sản”.

Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn N phải có nghĩa vụ thanh toán, trả nợ cho vợ chồng chị Nguyễn Thị H số tiền 48.580.000 đồng (Bốn mươi tám triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng chẵn).

Kể từ ngày vợ chồng chị Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng vợ chồng ông Nguyễn Văn N còn phải chịu lãi theo mức lãi suất 10%/ N tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi hành.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn N phải chịu 2.429.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm. Hoàn trả chị Nguyễn Thị H 1.214.000đ án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại biên lai số 0009017 ngày 13/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Hòa.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, buộc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/DS-ST ngày 16/04/2019 về tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán tài sản)

Số hiệu:01/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về