Bản án 01/2018/HS-ST ngày 09/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 09/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2017/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2017/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1/ Hà Tuấn V (tên gọi khác: V bà A), sinh năm 1990 tại Kon Tum. Nơi cư trú: Thôn Phương Q, xã Vinh Q, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Ngọc T (đã chết) và bà Võ Thị Ngọc A; có vợ (chưa đăng ký kết hôn) và 01 con; tiền án: 02, tiền sự: 01.

Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2008/HS-ST ngày 10/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xử phạt bị cáo Hà Tuấn V 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Bản án hình sự phúc thẩm số 28/2012/HS-PT ngày 06/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt bị cáo Hà Tuấn V 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”với tình tiết “tái phạm nguy hiểm” và 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 01/10/2016, bị cáo chấp hành xong án phạt tù. (Chưa được xóa án tích).

Ngày 25/11/2016, bị cáo Hà Tuấn V bị Công an thành phố Kon Tum ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0008465/QĐ-XPHC về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”, bị cáo chưa chấp hành.

Bị cáo V bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2017 đến nay. (Có mặt).

2/ Nguyễn Trọng V (tên gọi khác: B), sinh năm 1990 tại Kon Tum. Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố X, thị trấn Đắk H, huyện Đắk H, tỉnh Kon Tum; chỗ ở hiện nay: Phan Huy C, phường Trường C, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng B (đã chết) và bà Trần Thị V; tiền án: 03, tiền sự: Không.

Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2013/HS-ST ngày 09/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng V 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2015/HS-ST ngày 25/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Konplông, tỉnh Kon Tum xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng V 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2016/HS-ST ngày 27/7/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng V 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết “tái phạm nguy hiểm”. Ngày 04/7/2017, bị cáo chấp hành xong án phạt tù. (Chưa được xóa án tích).

Bị cáo V1 bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2017 đến nay. (Có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số 04 Lương Ngọc T, phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Tạ Hồng H, sinh năm 1989. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số 325 Phan Đình P, phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnh Kon

2/ Bà Trần Thị V, sinh năm 1946. (Có mặt).

Địa chỉ: Phan Huy C, phường Trường C, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cáo trạng số 01/C.Tr-VKS ngày 01/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum thể hiện: Vào khoảng 16 giờ ngày 26/8/2017, bị cáo Hà Tuấn V gọi điện thoại rủ bị cáo Nguyễn Trọng V đi trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài. Bị cáo V1 đồng ý và nói biết một nhà dân thường xuyên vắng nhà, không có người trông coi. Sau đó, Bị cáo V điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 82H1-065.72, mang theo 01 mỏ-lếch bằng kim loại đến nhà Bị cáo V1. Sau đó, Bị cáo V1 chở Bị cáo Vđến nhà Ông Nguyễn Văn T (Số 04 Lương Ngọc T, phường Duy T, thành phố Kon Tum). Đến nơi, thấy không có ai ở nhà và cửa nhà khóa nên Bị cáo V đi vào trong sân dùng mỏ-lếch bẻ khuy cửa còn Bị cáo V1 đứng bên ngoài cảnh giới. Khoảng 10 phút sau, Bị cáo V gọi Bị cáo V1 vào nhà trộm cắp một số tài sản bằng gỗ các loại gồm có:

- 01 khúc gỗ trắc hình trụ tròn, kích thước 55×25×25cm;

- 01 tượng Đạt ma bằng gỗ Cẩm, kích thước 50×30×20cm;

- 01 tượng bằng gỗ có hình con chim, kích thước 60×20×20cm;

- 02 hồ lô bằng gỗ, kích thước 10×5×5cm;

- 01 hồ lô bằng gỗ, kích thước 15×5×5cm;

- 02 tượng gỗ hình Thần tài bằng gỗ Hương, kích thước 20×12×10cm;

- 01 tượng gỗ Di Lặc bằng gỗ Thủy tùng, kích thước 20×30×30cm;

- 01 tượng gỗ hình con cóc bằng gỗ Hương, kích thước 7×12×7cm;

- 01 tượng hình Kỳ lân mạ màu vàng đồng, kích thước 16×18×10cm;

- 01 chân đế tiện gỗ, kích thước 15×20×20cm;

- 01 gạt tàn thuốc lá bằng gỗ, kích thước 8×12×12cm;

- 02 lục bình, kích thước 50×5×5cm;

- 02 lục bình, kích thước 25×7×7cm;

- 01 bình hoa, kích thước 35×5×5cm;

- 01 bình hoa, kích thước 30×5×5cm;

- 01 bình hoa, kích thước 25×5×5cm;

- 01 bình hoa, kích thước 23×5×5cm;

- 02 bát điếu bằng gỗ, kích thước 10×5×5cm.

Sau đó, các bị cáo chở toàn bộ số tài sản trên về cất giấu tại gian bếp của nhà bị cáo V ở thôn Phương Q, xã Vinh Q, thành phố Kon T. Riêng 01 tượng Phật Di Lặc bằng gỗ Thủy tùng (kích thước 20×30×30cm), bị cáo V tự ý bán cho anh Tạ Hồng H với giá 300.000 đồng. Đến 18 giờ ngày 27/8/2017, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo V và thu giữ được toàn bộ tài sản trên. Đối với số tiền 300.000 đồng, bị cáo V đã tiêu xài cá nhân hết.

Theo Kết luận định giá số 56/ĐG-TS ngày 30/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân thành phố Kon Tum: Giá trị còn lại của toàn bộ số tài sản do các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V trộm cắp của Ông Nguyễn Văn T là 22.350.000 đồng (Hai mươi hai triệu, ba trăm, năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 01/C.Tr-VKS ngày 01/12/2017 của Viện kiểm sát nhât dân thành phố Kon Tum truy tố các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V về tội“Trộm cắp tài sản“ theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V như Cáo trạng và đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Hà Tuấn V từ 38 đến 42 tháng tù. Đồng thời, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng V từ 24 đến 30 tháng tù. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ ngày 26/8/2017, các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đã lợi dụng sơ hở của người bị hại Ông Nguyễn Văn T trong việc quản lý tài sản nên đã sử dụng mỏ-lếch bẻ khuy khóa cửa để vào nhà và trộm cắp tài sản bằng gỗ có tổng giá trị là 22.350.000 đồng. Sau đó, các bị cáo chở toàn bộ số tài sản trên về cất giấu tại gian bếp nhà bị cáo V. Riêng 01 tượng Phật Di lặc bằng gỗ Thủy tùng (kích thước 20×30×30cm), Bị cáo V khai nhận đã bán cho Anh Tạ Hồng H với giá 300.000 đồng. Đến 18 giờ ngày 27/8/2017, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo V và thu giữ được toàn bộ tài sản đã trộm cắp. Đối với số tiền 300.000 đồng, bị cáo V đã tiêu xài cá nhân hết.

[2] Về áp dụng pháp luật: Căn cứ vào Điều 1 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội thì kể từ ngày 01/01/2018, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, theo điểm a khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41, “tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018”. Xét thấy, các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V thực hiện hành vi phạm tội trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Do đó, áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xét xử vụ án.

[3] Hành vi của các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đã phạm vào tội “trộm cắp tài sản”, quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi phạm tội của các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V là nguy hiểm cho xã hội, cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Kon Tum. Việc truy tố và đưa các bị cáo ra xét xử nhằm tuyên truyền pháp luật và răn đe phòng ngừa chung đối với tình hình tội phạm hiện nay là cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Nhận thấy, trước khi phạm tội, các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đều có nhân thân xấu, từng nhiều lần thực hiện các hành vi phạm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.

Đối với bị cáo Hà Tuấn V, nhận thấy: Bị cáo V có nhân thân xấu, có 02 tiền án, 01 tiền sự. Ngoài ra, vào ngày 25/11/2016, bị cáo V bị Công an thành phố Kon Tum ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”, bị cáo chưa chấp hành. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới, bị cáo Hà Tuấn V chưa được xóa án tích.

Đối với bị cáo Nguyễn Trọng V, nhận thấy: Bị cáo V1 có nhân thân xấu, có 03 tiền án. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới, bị cáo Nguyễn Trọng V chưa được xóa án tích.

Hội đồng xét xử nhận thấy, các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đều đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do đó, lần phạm tội này của các bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đúng với nội dung Cáo trạng số 01/C.Tr-VKS ngày 01/12/2017 Của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, những tình tiết đã là yếu tố định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Do đó, không áp dụng quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm” tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng cho các bị cáo khi lượng hình.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[5.1] Đối với bị cáo Hà Tuấn V, nhận thấy: Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vđã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cần được áp dụng cho bị cáo V khi lượng hình.

[5.2] Đối với bị cáo Nguyễn Trọng V, nhận thấy:

Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo V1 đã thành khẩn khai báo. Bên cạnh đó, bị cáo V1 đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại là Ông Nguyễn Văn T số tiền 2.500.000 đồng. Ông T cũng có đơn bãi nại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo V1 (BL số 68). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm p, b khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cần được áp dụng cho bị cáo V1 khi lượng hình.

Ngoài ra, cha ruột của bị cáo Nguyễn Trọng V là người có công với cách mạng, được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. So sánh, đối chiếu với quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo V1 không thuộc trường hợp “người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ”. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng không có lợi cho người phạm tội. Do đó, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo V1 khi lượng hình.

[6] Xét thấy, đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo Hà Tuấn V là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn Trọng V phạm tội. Bị cáo V1 cũng tích cực tham gia thực hiện hành vi phạm tội nên vai trò của hai bị cáo là ngang nhau và đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đã nhiều lần bị xét xử về các hành vi xâm phạm quyền sở hữu của công dân và đã có thời gian bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục. Tuy nhiên, sau khi chấp hành án phạt tù, chưa được xóa án tích thì các bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Đây là lần thứ hai các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp“tái phạm nguy hiểm”. Điều đó cho thấy bản chất các bị cáo lười lao động, thích hưởng thụ; không thể hiện thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội; không nhận thức được lỗi lầm của bản thân để phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành người có ích cho xã hội. Nhận thấy, cần phải có thời gian và mức án nghiêm khắc mới đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo. Do đó, cần cách ly các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V với đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, biết tôn trọng quy định của pháp luật.

[7] Ngoài ra, so sánh quy định về tội “Trộm cắp tài sản” tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 với khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 nhận thấy: Cả hai điều luật đều quy định khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Do đó, không áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội khi quyết định hình phạt.

[8] Đối với lời khai của bị cáo Hà Tuấn V về việc có bán 01 tượng Phật Di Lặc bằng gỗ Thủy tùng, kích thước 20×30×30cm cho Anh Tạ Hồng H: Trong quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã tiến hành các biện pháp điều tra, đối chất; tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tranh tụng nhưng chưa xác định được Hưng có phải là người mua tượng của Vũ hay không. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, có cơ sở sẽ xử lý sau.

[9] Về vật chứng vụ án:

- Trong quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã thu giữ và xử lý các vật chứng như sau:

+ Đối với tất cả tài sản bằng gỗ các loại mà các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V đã trộm cắp (trừ 01 tượng Phật Di Lặc bằng gỗ Thủy tùng, kích thước 20×30×30cm), cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả lại cho chủ sở hữu Ông Nguyễn Văn T là phù hợp với quy định của pháp luật;

+ Đối với 01 lục bình, kích thước 40×6×6cm là tài sản của chị Lê Thị P, không liên quan đến vụ án. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả cho chủ sở hữu chị Lê Thị P là phù hợp với quy định của pháp luật;

+ Đối với 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 82H1-065.72, mang tên chị Phạm Thị T: Trong quá trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã xác minh chủ sở hữu hiện nay của chiếc xe là bà Nguyễn Thị H. Bà H hoàn toàn không biết việc bị cáo Hà Tuấn V sử dụng chiếc xe này làm công cụ, phương tiện phạm tội. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả cho chủ sở hữu bà Nguyễn Thị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vega, màu đen, số Imei 356172052190938 và 01 sim điện thoại không rõ số kèm theo máy là tài sản của chị Lê Thị P; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu đen, số Imei 356504/07/115273/1 và 01 sim điện thoại không rõ số kèm theo máy là tài sản của bà Trần Thị V. Chị P và bà V hoàn toàn không biết việc các bị cáo sử dụng các vật chứng này liên lạc với nhau để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả lại cho chủ sở hữu tài sản là chị Lê Thị P và bà Trần Thị V là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với 01 mỏ-lếch dài 30cm, có vỏ bọc, cán màu cam – đen, trên có dòng chữ “Century Usa Standard 12 IT”: Đây là công cụ, phương tiện mà các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 tượng Phật Di Lặc bằng gỗ Thủy tùng, kích thước 20×30×30cm, hiện chưa thu hồi được. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, có cơ sở sẽ xử lý sau.

[10] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại Ông  Nguyễn Văn T đã nhận được số tiền bồi thường là 2.500.000 đồng từ gia đình bị cáo Nguyễn Trọng V. Ông T có đơn không yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 2.500.000 đồng mà bà Trần Thị V (mẹ bị cáo Nguyễn Trọng V) đã bồi thường cho người bị hại Ông Nguyễn Văn T: Do bà V không yêu cầu bị cáo V1 bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và vể hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.

Tuyên bố các bị cáo Hà Tuấn V (tên gọi khác: V bà A) và Nguyễn Trọng V (tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo Hà Tuấn V (tên gọi khác: V bà A) 38 (Ba mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam, ngày 27/8/2017.

Áp dụng các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng V (tên gọi khác: Bảy) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam, ngày 27/8/2017.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu và tiêu hủy 01 mỏ-lếch dài 30cm, có vỏ bọc, cán màu cam – đen, trên có dòng chữ Century Usa Standard 12 IT”, như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/12/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Kon Tum và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum.

Về án phí: Căn cứ các Điều 135 và 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 6, 21 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Hà Tuấn V và Nguyễn Trọng V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (09/01/2018), các bị cáo và đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

371
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 09/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu: 01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về