Bản án 01/2018/HSST ngày 02/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

 BẢN ÁN 01/2018/HSST NGÀY 31/7/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2017/HSST ngày 21 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Trần Duy T - sinh ngày 02/01/1981, tại tỉnh B. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay thôn Bản N, xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 2/12; dân tộc: Kinh; con ông Trần Duy T1 và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Chu Thị L và 01 người con sinh năm 2014, đều trú tại thôn Bản N, xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

Tiền sự không có; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 17/3/2015 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 14/11/2015 đã chấp hành xong hình phạt tù.

Về nhân thân: Ngày 09/02/2007 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng tù; ngày 12/4/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 15 tháng tù cùng về tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 9 năm 2017 tại công an huyện Bình Gia đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nông Thị H, sinh năm 1983, địa chỉ thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Liễu Văn T, sinh năm 1982, địa chỉ thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ ngày 14/8/2017 bị cáo Trần Duy T mang theo 01 chìa khóa xe mô tô, 01 chiếc mũ bảo hiểm đi xe khách từ thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định đến chợ Văn Mịch, xã Hồng Phong, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn với mục đích tìm kiếm và trộm cắp tài sản, khi đến chợ Văn Mịch, bị cáo xuống xe ô tô đi bộ quan sát thấy tại nơi rẽ từ tỉnh lộ 226 đi tắt vào chợ, có nhiều xe mô tô của khách đi chợ dựng ở cạnh đường không có người trông giữ, Trần Duy T nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô đem bán, nên đến vị trí chiếc mô tô Honda màu đen - bạc, biển kiểm soát 12B1-075.61 của chị Nông Thị H trú tại thôn N, xã H, huyện B đang đi chợ Văn Mịch, trên xe treo 02 chiếc mũ bảo hiểm. Bị cáo dùng chìa khóa đem theo mở được ổ khóa điện, nổ máy và đi hướng rẽ theo đường tỉnh lộ 231 đi Hội Hoan, huyện Văn Lãng, trên đường đi Trần Duy T đã vứt 02 chiếc mũ bảo hiểm nhằm phi tang. Khi đến chợ Háng Van thuộc xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng bị cáo mua 30.000đồng tiền xăng đổ vào xe và đi tiếp đến khu vực Gốc Bưởi thuộc thôn Khơ Đa, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn thì bán xe cho một người tên T không rõ địa chỉ ở đâu được 3.000.000đồng, số tiền này bị cáo đã mua ma túy để sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất xe mô tô chị Nông Thị H đã trình báo cơ quan Công an huyện B đề nghị truy tìm. Qua điều tra, xác minh đã xác định được bị cáo Trần Duy T là người thực hiện trộm cắp chiếc xe mô tô của chị Nông Thị H. Căn cứ các kết luận ngày 07/9/2017 và 03/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện B đã kết luận: xe mô tô Honda biển kiểm soát 12B1-075.61 có giá trị là 18.700.000đồng; 02 chiếc mũ bảo hiểm có giá trị là 135.000đồng. Tổng giá trị tài sản là 18.835.000đồng.

Đối với người đàn ông tên T, mua chiếc mô tô với bị cáo. Cơ quan điều tra không xác định được, nên không xem xét trong vụ án này, hiện không thu được chiếc xe mô tô bị cáo đã bán cho người tên T và 02 chiếc mũ bảo hiểm.

Vật chứng thu được liên quan đến vụ án là 01 chiếc mũ bảo hiểm màu đen kẻ trắng thu của bị cáo và 01 gấy đăng ký xe mô tô Honda biển kiểm soát 12B1-075.61 mang tên Liễu Văn T (chồng chị H) do chị Nông Thị H giao nộp.

Bản cáo trạng số: 23/KSĐT ngày 21/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia đã truy tố bị cáo Trần Duy T về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa qua xét hỏi và tranh luận bị cáo thừa nhận đúng hành vi trộm cắp xe mô tô của chị Nông Thị H như nêu trên.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản là xe mô tô có trị giá là 8.700.000đ, nên đủ căn cứ tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên đến ngày xét xử sơ thẩm thì Bộ luật hình sự năm 1999 đã hết hiệu lực và Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015) đã có hiệu lực. Nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt đối với bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về bồi thường dân sự, đề nghi công nhận sự thỏa thuận về bồi thường, buộc bị cáo phải trả cho bị hại chị Nông Thị H là 18.835.000đồng. Về vật chứng, tịch thu tiêu hủy 01 chiếc mũ bảo hiểm là tài sản của bị cáo nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng; trả lại cho anh Liễu Văn T 01 giấy đăng ký xe mô tô. Về án phí bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo giá ngạch.

XÉT THẤY

Về quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra, Điều tra viên công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B và Kiểm sát viên đều thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Trần Duy T, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội, chứng cứ buộc tội đối với bị cáo Trần Duy T: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ. Khi phạm tội có đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, với hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản là xe mô tô, 02 mũ bảo hiểm tổng trị giá 18.835.000đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, cần tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, vì thời điểm bị cáo phạm tội và các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố thì Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn còn hiệu lực. Nhưng đến ngày xét xử sơ thẩm thì Bộ luật hình sự năm 1999 đã hết hiệu lực và Bộ luật hình sự năm 2015 đã có hiệu lực. Nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo phạm tội tội Trộm cắp tài sản là đúng luật định.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; và có một tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 vì bị cáo còn một tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, nay lại cố ý phạm tội nên là Tái phạm. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu, vì ngoài lần phạm tội này, bị cáo đã 3 lần bị xét xử phạt tù giam cũng về tội Trộm cắp tài sản; bản thân không chịu lao động, lười lao động, nghiện ma túy.

Từ những nhận định đánh giá trên, căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, thấy cần xử phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian cần thiết, để bị cáo cải tạo sửa chữa lỗi lầm sau này thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật và nhằm răn đe phòng ngừa chung tội phạm. Về hình phạt bổ sung, bị cáo không có thu nhập, công việc, lại nghiện ma rúy, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc mô tô và 02 chiếc mũ bảo hiểm, cơ quan điều tra không thu hồi được, tại phiên tòa chị Nông Thị H yêu cầu bị cáo phải bồi thường theo kết quả định giá tài sản, bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ tài sản chiếm đoạt là 18.8350.000đồng. Do vậy cần công nhận sự thỏa thuận này, buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại là 18.835.000đồng cho người bị hại là chị Nông Thị H.

Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 chiếc mũ bảo hiểm là tài sản của bị cáo nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng; trả lại cho anh Liễu Văn T 01 giấy đăng ký xe mô tô.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định là 200.000đồng và án phí có giá ngạch trên tổng số tiền phải bồi thường là 18.835.000đồng x 5% = 941.000đồng theo  quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo, người bị hại không có ý kiến tranh luận, bị cáo chỉ xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà cơ bản có căn cứ pháp luật nên được chấp nhận.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Duy T phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Phạt bị cáo Trần Duy T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giam là ngày 07 tháng 9 năm 2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Trần Duy T.

2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 584, 585 và khoản 1 Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015. Công nhận sự thỏa về bồi thường dân sự giữa bị cáo với bị hại. Buộc bị cáo Trần Duy T phải bồi thường thiệt hại tài sản cho chị Nông Thị H tổng số tiền là 18.835.000đồng (Mười tám triệu tám trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu của bên được trả tiền, nếu bị cáo chưa trả được khoản tiền trên, thì còn phải trả lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc mũ bảo hiểm thu được của bị cáo Trần Duy T vì không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho anh Liễu Văn T 01 giấy đăng ký xe mô tô biểm kiểm soát 12B1-075.61 mang tên Liễu Văn T.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 và 3 Điều  21; điểm a và d khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí Toà án.

Buộc bị cáo Trần Duy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 941.000đồng. Tổng cộng án phí bị cáo phải chịu là 1.141.000đồng (Một triệu một trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HSST ngày 02/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về