Bản án 01/2018/DS-ST ngày 17/01/2018 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2018/DS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 17 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/2016/TLST- DS ngày 18 tháng 5 năm 2016 vụ kiện “Tranh châp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và hợp đồng cầm cố QSDĐ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:120/QĐXXST-DS ngày 07/11/2017, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Bà Võ Thị C, sinh năm 1957 (có mặt)

Đia chi: ấp T, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1965 (vắng mặt) Đia chỉ: ấp P, xã P, huyên Châu Thanh, tỉnh Đồng Tháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan:

1. Bà Lê Thị L, sinh năm 1968 (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1995 (vắng mặt)

3. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1997 (vắng mặt)

Cùng đia chi: ấp P, xã P, huyên Châu Thanh, tỉnh Đồng Tháp.

4. Ông Trần Văn N, sinh năm 1961 (có mặt)

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện Châu Thành, Đồng Tháp.

5. Chị Phan Thị H, sinh năm 1983 (có mặt)

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyên Châu Thanh, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/4/2016, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Võ Thị C trình bày:

Ngày 11/4/2014 ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L có làm giấy tay chuyển nhượng cho bà C diện tích đất ruộng 5.045m2 trọn thửa 897, tờ bản đồ số 45 tọa lạc tại ấp P, xã P với giá 2,1 lượng vàng 24k (21 chỉ)/1.000m2, tổng cộng 11,1 lượng vàng 24k. Bà C đã giao vàng cho ông T, bà L nhận hai lần tổng cộng 5,7 lượng vàng 24k (lần đầu 05 lượng ngày 11/4/2014; lần sau 07 chỉ ngày 21/11/2014). Phía ông T, bà L đã giao giấy chứng nhận QSDĐ và giao đất cho bà C canh tác và hứa đến tháng 4/2015 sẽ làm thủ tục sang tên cho bà C đứng tên QSDĐ và bà C sẽ giao đủ số vàng còn lại. Tuy nhiên, ông T, bà L đã không thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ cho bà C như đã hứa nên bà C có thưa ra xã hòa giải nhưng bên ông T, bà L đã không đến dự. Hiện bà C vẫn đang canh tác, sử dụng phần đất cho tới nay.

Nay bà Võ Thị C yêu cầu ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L trả cho bà C số vàng đã nhận 5,7 lượng vàng 24k, bà C trả lại phần đất đã chuyển nhượng thửa 897, tờ bản đồ số 45 diện tích đo đạc thực tế 5.067m2 thuộc phạm vi các mốc 1,2,3,4,5,6,1 của sơ đồ đo đạc ngày 08/3/2017 (Bà C không yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng).

Theo đơn kiện yêu cầu độc lập và trong quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan ông Trần Văn N trình bày:

Ngày 16/7/2013 âl ông N có nhận cố của ông T, bà L diện tích 1.000m2 đất ruộng, thuộc một phần thửa 897, tờ bản đồ số 45 với giá 10 chỉ vàng 24k, thời hạn cố 01 năm nhưng ông N không nhận đất canh tác mà cho ông T, bà L thuê lại với giá 5.000.000đ/1 năm. Ông T, bà L có trả tiền thuê của năm 2014 rồi ngưng, và cũng chưa chuộc lại đất.

Nay ông Trần Văn N yêu cầu ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L cùng L đới trả cho ông N 10 chỉ vàng 24k vàng cố đất.

Theo đơn kiện yêu cầu độc lập và trong quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan chị Phan Thị H trình bày:

Ngày 09/02/2008 âl chị H có nhận cố của ông T, bà L diện tích 3.000m2 đất ruộng, thuộc một phần thửa 897, tờ bản đồ số 45 với giá 23 chỉ vàng 24k, thời hạn cố 01 năm nhưng chị H không nhận đất canh tác mà cho ông T, bà L thuê lại với giá 1.500k lúa/1 năm, nếu hết thời hạn 01 năm mà không chuộc thì tiếp tục đong lúa. Ông T, bà L có đong lúa đầy đủ cho chị H đến năm 2013 thì ngưng và cũng chưa chuộc lại đất.

Nay chị Phan Thị H yêu cầu ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L cùng L đới trả cho chị H 23 chỉ vàng 24k vàng cố đất.

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan bà Lê Thị L trình bày:

Bà Lê Thị L thừa nhận việc vợ chồng bà L, ông T có hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa 897, tờ bản đồ số 45 cho bà Võ Thị C, về giá chuyển nhượng, số vàng đã nhận cũng như việc giao giấy chứng nhận và giao đất cho bà C quản lý, sử dụng như bà C đã trình bày là đúng.

Bà L cũng thừa nhận có hợp đồng cố đất 1.000m2 cho ông Trần Văn N và cố 3.000m2 cho chị Phan Thị H, về số vàng cố, thời gian cầm cố cũng như việc thuê đất lại để canh tác như ông N, chị H đã trình bày là đúng.

Về nguyên nhân chưa làm thủ tục chuyển nhượng cho bà C được là vì vợ chồng bà L, ông T có thiếu nợ tiền vật tư của ông Trần Hữu Nghĩa số tiền 123.875.000đ, ông Nghĩa đã khởi kiện ra Tòa án giải quyết và Thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế phần đất thửa thửa 897, tờ bản đồ số 45 của ông T, bà L nên không làm thủ tục chuyển nhượng cho bà C. Do đó, cũng không có tiền chuộc lại đất đã cố của ông N và chị H.

Nay bà Lê Thị L đồng ý L đới cùng chồng là ông Nguyễn Hữu T trả cho bà C số vàng 5,7 lượng vàng 24k trong việc chuyển nhượng QSDĐ và đồng ý trả cho ông Trần Văn N 10 chỉ vàng 24k và chị Phan Thị H 23 chỉ vàng 24k trong việc hợp đồng cầm cố QSDĐ.

Bị đơn ông Nguyễn Hữu T và người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan Nguyễn Hữu H, Nguyễn Thị N đã vắng mặt trong các lần Tòa án triệu tập để giải quyết vụ án cũng như vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện phát biểu ý kiến về vụ án:

* Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật của thẩm phán có đảm bảo đúng qui định của pháp luật: thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, sắp xếp tư cách tham gia tố tụng của đương sự đúng qui định, thu thập đầy đủ chứng cứ cho việc giải quyết vụ án, thực hiện chưa đúng thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 BLTTDS; về Hội đồng xét xử có tuân theo đúng qui định của pháp luật; đối với các đương sự: nguyên đơn có đảm bảo chấp hành theo đúng qui định của pháp luật; đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan (ông T, bà L, anh H, chị N) không chấp hành tham gia phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và phiên tòa xét xử là chưa thực hiện đúng qui định của pháp luật.

* Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị C và chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Văn N và chị Phan Thị H. Buộc ông T, bà L cùng L đới trả cho bà C 5,7 lượng vàng 24k; trả cho ông N 10 chỉ vàng 24k; trả cho chị H 23 chỉ vàng 24k. Buộc bà C giao trả cho ông T, bà L diện tích đất thửa 897, tờ bản đồ số 45 nằm trong phạm vi các mốc 1,2,3,4,5,6,1 của sơ đồ đo đạc ngày 08/3/2017 diện tích đo đạc thực tế 5.067m2 và 01 giấy chứng nhận QSDĐ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntoà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định: Về tố tụng:

Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn ông Nguyễn Hữu T; người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan bà Lê Thị L, anh Nguyễn Hữu H, chị Nguyễn Thị N theo qui định tại các Điều 220, Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) nhưng các đương sự trên đã vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo qui định tại các Điều 227, 228 BLTTDS.

Về nội dung vụ án:

[1] Xét hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà C với ông T, bà L HĐXX thấy rằng hợp đồng không đảm bảo đúng qui định của pháp luật về mặt hình thức, cũng không có công chứng hoặc chứng thực. Do đó, theo qui định của pháp luật hiện hành tại thời điểm giao kết hợp đồng bị vô hiệu về mặt hình thức. Xét về nội dung của hợp đồng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trọn thửa 897, tờ bản đồ số 45, diện tích cấp giấy 5.045m2 tọa lạc tại ấp P, xã P do hộ ông Nguyễn Hữu T đứng tên QSDĐ cấp ngày 29/8/2007 với giá 2,1 lượng vàng (21 chỉ) 24k/1.000m2, tổng cộng 11,1 lượng vàng 24k. Hai bên đã tiến hành thực hiệncác quyền, nghĩa vụ với nhau trong việc chuyển nhượng QSDĐ. Cụ thể, phía bà C đã giao số vàng 5,7 lượng cho ông T, bà L nhận; phía ông T, bà L đã giao đất cùng giấy chứng nhận QSDĐ cho bà C nhận sử dụng và hẹn tháng 4/2015 làm thủ tục sang tên cho bà C nhưng ông T, bà L đã không thực hiện.

[2] Tại phiên tòa, bà C yêu cầu không tiếp tục thực hiện hợp đồng mà yêu cầu ông T, bà L trả lại số vàng đã nhận là 5,7 lượng vàng 24k. Do vậy, như HĐXX đã phân tích hợp đồng bị vô hiệu về mặt hình thức nên các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Qua đó, xét yếu tố lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu giữa hai bên là ngang nhau nên không bên nào phải bồi thường cho bên nào. Do đó, buộc ông T, bà L trả cho bà C 5,7 lượng vàng 24k đã nhận và buộc bà C giao trả đất và giấy chứng nhận QSDĐ thửa 897 cho ông T, bà L là đúng qui định của pháp luật.

[3] Xét hai hợp đồng cầm cố QSDĐ giữa ông T, bà L với ông Trần Văn N và chị Phan Thị H HĐXX nhận thấy pháp luật hiện hành tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng không có qui định về hợp đồng cầm cố QSDĐ. Do vậy, việc các bên giao kết hợp đồng cầm cố QSDĐ như trên cũng bị vô hiệu theo qui định của pháp luật. Mặt khác, thời hạn hợp đồng cầm cố giữa các bên cũng đã hết, bên nhận cầm cố ông N, chị H cũng yêu cầu ông T, bà L giao trả số vàng đã nhận là 10 chỉ vàng 24k của ông N và 23 chỉ vàng 24k của chị H. Qua đó, HĐXX xét thấy yêu cầu của ông N, chị H là có căn cứ, bởi lẽ qua lời trình bày của bà L đều thừa nhận vợ chồng bà L, ông T có cầm cố đất cho ông N, chị H; thừa nhận có nhận của ông N 10 chỉ vàng chưa trả và nhận của chị H 23 chỉ vàng chưa trả, các tình tiết này cũng phù hợp với các chứng cứ khác như giấy cố đất mà ông N, chị H giao nộp. Ngoài ra, trong vụ án này các bên đương sự không ai có yêu cầu L quan đến hợp đồng thuê đất. Do vậy, HĐXX tuyên bố hợp đồng cầm cố QSD đất giữa các bên vô hiệu, lỗi của hai bên làm cho hợp đồng vô hiệu là ngang nhau nên không ai có nghĩa vụ bồi thường, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Cụ thể, HĐXX chấp nhận yêu cầu độc lập của ông N, chị H là buộc ông T, bà L có nghĩa vụ L đới trả cho ông N 10 chỉ vàng 24k và trả cho chị H 23 chỉ vàng 24k. Do trong việc cầm cố QSDĐ ông N, chị H không nhận đất canh tác mà cho ông T, bà L thuê lại, hiện phần đất cố cho ông N, chị H thì ông T, bà L vẫn đang quản lý, sử dụng nên không buộc ông N, chị H giao trả đất.

[4] Đối với bị đơn ông Nguyễn Hữu T mối quan hệ là chồng bà L, trong các hợp đồng (giấy tay) chuyển nhượng đất với bà C và cầm cố đất với ông N, chị H ông T đều có ký tên, mặt khác thửa đất 897 cấp cho hộ ông Nguyễn Hữu T đứng tên quyền sử dụng đất. Tuy rằng ông T không có lời trình bày nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ HĐXX đã phân tích và lời khai thừa nhận của bà L, HĐXX xác định ông T có cùng bà L chuyển nhượng đất cho bà C và cầm cố đất cho ông N, chị H. Do vậy buộc ông T L đới cùng bà L trả nợ là đúng với qui định của pháp luật.

 [5] Trong quá trình tòa án giải quyết phía bà L có lời trình bày đều thừa nhận bà L, ông T có hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với bà C, và hợp đồng cầm cố với ông N, chị H và đều đồng ý giao trả lại số vàng đã nhận của bà C, ông N và chị H.

 [6] Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị C và chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan ông Trần Văn N và chị Phan Thị H.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Huyện về quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan được chấp nhận nên ông T, bà L phải chịu án phí DSST và lệ phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 121, 137, 697 Bộ Luật dân sự 2005; Pháp lệnh qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị C;

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ Lquan ông Trần Văn N và chị Phan Thị H;

- Buộc ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L L đới trả số vàng chuyển nhượng QSDĐ cho bà Võ Thị C 5,7 lượng (57 chỉ) vàng 24k.

Bà Võ Thị C giao trả cho ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L phần đất thửa 897, tờ bản đồ số 45 có diện tích đo đạc thực tế 5.067m2 nằm trong phạm vi các mốc 1,2,3,4,5,6,1 của sơ đồ đo đạc ngày 08/3/2017 cùng 01 giấy chứng nhận QSDĐ số bìa AK 509640 cấp ngày 29/8/2007 (có sơ đồ đo đạc kèm theo).

- Buộc ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L L đới trả cho ông Trần Văn N 10 (Mười) chỉ vàng 24k và trả cho chị Phan Thị H 23 (Hai mươi ba) chỉ vàng 24k trong việc cầm cố QSDĐ.

- Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của bà Võ Thị C, ông Trần Văn N, chị Phan Thị H mà ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L chưa thi hành số vàng trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi theo mức lãi suất cho vay bằng vàng bình quân của 3 tổ chức tín dụng trên địa bàn tại thời điểm thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

* Về án phí: ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L L đới nộp 16.290.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Võ Thị C số tiền tạm ứng án phí đã nộp 9.213.000đ theo biên lai thu số 038710 ngày 18/5/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Hoàn trả cho ông Trần Văn N số tiền tạm ứng án phí đã nộp 860.000đ theo biên lai thu số 10516 ngày 03/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Hoàn trả cho chị Phan Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.350.000đ theo biên lai thu số 10519 ngày 06/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

* Về lệ phí xem xét, thẩm định và định giá: tổng cộng 3.879.000đ buộc ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị L L đới chịu. Số tiền này bà Võ Thị C đã nộp tạm ứng và chi xong nên thu của ông T, bà L trả lại cho bà Võ Thị Chín.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày hôm nay tuyên án, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/DS-ST ngày 17/01/2018 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất

Số hiệu:01/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về