PHÁP LÝ KHỞI NGHIỆP cho tôi hỏi: Tôi hiện là chủ một DNTN. Có vài người bạn muốn rủ tôi góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành viên, nhưng tôi không đủ vốn thì có thể góp vốn bằng tên thương mại của doanh nghiệp tôi được không? Mong được hỗ trợ
>> Hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập khẩu năm 2022
>> Hồ sơ khai hải quan hàng hóa nhập khẩu năm 2022
Nội dung này được Ban Hỗ trợ PHÁP LÝ KHỞI NGHIỆP trả lời như sau:
Theo quy định tại Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì tên thương mại là một trong những đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ dưới hình thức quyền sở hữu công nghiệp.
Theo Điều 34 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về tài sản góp vốn như sau:
Điều 34. Tài sản góp vốn
1. Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
2. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, tên thương mại là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ cũng có thể được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2020 có quy định về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn như sau:
“Điều 35. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn
1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây:
…
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản, trừ trường hợp được thực hiện thông qua tài khoản.
Và khoản 2 Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định chủ sở hữu tên thương mại là tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh.
Như vậy, tên thương mại không cần phải tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ mà được công nhận thông qua việc sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Do đó, việc góp vốn bằng tên thương mại phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Mặt khác, khoản 3 Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định việc chuyển nhượng quyền đối với tên thương mại chỉ được thực hiện cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
Vậy, anh/chị có thể sử dụng tên thương mại để góp vốn thành lập doanh nghiệp, tuy nhiên việc góp vốn này phải được thực hiện cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó. Đồng thời việc góp vốn bằng tên thương mại này phải được thực hiện bầng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Lưu ý:
Theo khoản 1 Điều 36 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá định giá và được thể hiện thành Đồng Việt Nam.
Do đó, tên thương mại phải được định giá và thể hiện thành Đồng Việt Nam.
Đồng thời, khoản 2 Điều luật này cũng quy định:
- Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc do một tổ chức thẩm định giá định giá.
- Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.
- Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của tài sản đó tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
Trên đây là nội dung hỗ trợ của PHÁP LÝ KHỞI NGHIỆP về vấn đề trên.
Trân trọng!