Tôi có thời gian lao động (LĐ) 30 năm, trong đó có 20 năm LĐ nặng nhọc. Hiện tôi đã chuyển sang vị trí mới, không trực tiếp LĐ nặng nhọc. Vậy người sử dụng LĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi tôi đủ 55 tuổi, mặc dù tôi vẫn muốn tiếp tục làm việc? Tôi đã tìm hiểu nhiều văn bản pháp quy nhưng chưa thấy nói rõ việc này.
Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng các thỏa thuận đã giao kết.
Về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, pháp
quản lý Nhà nước về lao động địa phương biết, người sử dụng lao động mới được quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
Trường hợp người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng lao động đã ký, vì lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nhưng người lao động không muốn trở lại làm việc thì giải quyết như thế nào?
Theo quy định của Bộ luật lao động thì người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động ốm đau, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của thày thuốc, trừ các trường hợp: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị
Theo khoản 3 Điều 37 Bộ luật Lao động năm 1994, được sửa đổi bổ sung năm 2002, người lao động làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, và phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày. Trường hợp của bạn đã chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật và theo quy định tại
Bộ luật này. Ngoài quy định các trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động còn phải báo cho người lao động biết trước theo khoản 2 Điều này. Văn phòng tư vấn pháp luật LĐLĐ tỉnh xin trả lời cho người lao động biết!
kết giữa người sử dụng lao động với người được uỷ quyền hợp pháp thay mặt cho nhóm người lao động. Trong trường hợp này hợp đồng có hiệu lực như ký kết với từng người.
+ Đối với hợp đồng lao động thời hạn từ 3 tháng trở lên, các bên phải có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương, người lao
Hợp đồng lao động đã ký kết có thể được thay đổi tuỳ thuộc vào ý chí của người lao động và người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động được giao kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, và do đó, khi cần thiết hai bên có thể thoả thuận để thay đổi những điều khoản của hợp đồng đã ký kết.
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Lao động, trong quá trình
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Lao động và Điều 10 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 của Chính phủ thì hợp đồng lao động được tạm hoãn thực hiện trong những trường hợp sau:
- Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự hoặc các nghĩa vụ công dân khác do pháp luật quy định;
- Người lao động bị tạm giữ, tạm giam;
- Các trường hợp
doanh nghiệp (nếu có).
2- Khi người lao động đơn phương chấm dứt bất hợp pháp hợp đồng lao động
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 41 Bộ luật Lao động, người lao động không được hưởng trợ cấp thôi việc; phải bồi thường phí tổn đào tạo (nếu có); nếu vi phạm thời hạn báo trước, phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền
trái quy định của pháp luật lao động và thoả ước lao động tập thể của doanh nghiệp. Nếu thấy hợp đồng lao động bất lợi, thiệt thòi cho người lao động thì Ban chấp hành Công đoàn cần kiến nghị với người sử dụng lao động bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế.
- Tổ chức mạng lưới quần chúng của công đoàn từ tổ đến cơ sở để theo dõi, kiểm tra, giám sát thực
Tôi là nhân viên tại một doanh nghiệp nhà nước, tôi công tác tại đây đã được 6 năm và được kí hd lao động không xác định thời hạn. Vừa qua tôi có nhận được Thông báo của Tổng GD với nội dung đề nghị tôi đi liên hệ công tác, lí do đưa ra là do tình hình doanh nghiệp khó khăn, không bố trí được công việc. trên thông báo có ghi thời hạn đi liên hệ
1. Qua khám sức khỏe định kỳ, có một số người lao động trong Công ty em trên 50 tuổi mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH bị huyết áp cao . Em muốn đề nghị người lao động đi giám định sức khỏe, nếu giám định mà sức khỏe suy giảm từ 61% trở lên thì Công ty sẽ chấm dứt HĐLĐ với người lao động đó. Vậy Công ty chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này có đúng pháp
Công ty tôi có 1 tình huống khó xử liên quan đến an toàn lao động kính đề nghị Luật sư tư vấn giúp đỡ. Sự việc như sau: Người lao động L làm việc tại Công ty tôi được 4 tháng, hiện nay Công ty chưa đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động này. Mấy hôm trước, người này trên đường đi làm thì bị tai nạn giao thông tử vong, hiện có 2 con nhỏ. Như
Em tôi làm việc ở công ty dược phẩm Pharmacity hơn 6 tháng mà vẫn chưa có hợp đồng lao động Khi em tôi lên chức quản lý công ty liền gây áp lực đòi đuổi em tôi, họ nói e tôi lấy tiền thừa( tiền boa) của khách trong khi tiền đó luôn bỏ trong két tính tiền của cửa hàng chứ không dùng riêng, họ còn nói e tôi bán thuốc không đưa bill cho khách
Theo Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự như sau:
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ