Hành vi đánh bạc qua mạng bị xét vào khung nào?
Hành vi đánh bạc qua mạng - Ảnh minh họa Đánh bạc là một tội phạm khó xác định về hành vi phạm tội, bởi lẽ có rất nhiều hình thức đánh bạc khác nhau. Việc áp dụng các phương tiện điện tử, kỹ thuật để thực hiện hành vi đánh bạc đã không còn xa lạ, nhưng thực tế vẫn còn nhiều thắc mắc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Đánh bạc như thế nào mới bị truy cứu? Mỗi tội phạm đều có dấu hiệu cấu thành nhất định và được pháp luật điều chỉnh. Tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được quy định như sau: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Như vậy, để hành vi đánh bạc thuộc mộ trong những trường hợp sau sẽ cấu thành tội này: (1) Đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000. (2) Đánh bạc được thua bằng hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc. (3) Đánh bạc được thua bằng hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 3 trường hợp sẽ cấu thành tội phạm cơ bản của tội Đánh bạc, kể cả đối với hình thức đánh bạc qua mạng. Đánh bạc qua internet và khung tăng nặng Các tình tiết ở khung tăng nặng (phạt tù từ 3 đến 7 năm) tại Khoản 2 Điều 321 bao gồm: - Có tính chất chuyên nghiệp; - Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên. - Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội. - Tái phạm nguy hiểm. Có hai nhầm lần phổ biến về khung tăng nặng của tội này: 1. Đánh bạc qua mạng là đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp Về vấn đề này, Điểm d Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP có hướng dẫn cụ thể như sau: “Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.” Văn bản này hướng dẫn Bộ luật hình sự 1999, tuy bộ luật đã được thay thế nhưng văn bản này vẫn là cơ sở để các Tòa án áp dụng tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”. Như vậy để được xem là “đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp” theo BLHS 2015 thì người phạm tội phải đánh bạc từ 5 lần trở lên mà giá trị hiện vật mỗi lần bằng mức tối thiểu để truy cứu TNHS, tức 5 triệu đồng và dùng tiền kiếm được từ đánh bạc làm nguồn sống chính. 2. Chỉ cần đánh bạc qua internet là sẽ bị áp dụng mức tăng nặng Để áp dụng khung tăng nặng với một hành vi, trước hết hành vi đó phải thỏa mãn dấu hiệu phạm tội của tội phạm, tức phải thuộc 3 trường hợp cấu thành tội này thì hành vi đánh bạc qua mạng mới bị xét vào khung tăng nặng Có nghĩa: - Việc đánh bạc qua mạng ít nhất phải thỏa mãn tình tiết được thua bằng hiện vật giá trị từ 5 triệu đồng trở lên. - Đã bị xử lý hành chính hoặc bị kết án hình sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc mà chưa được xóa án tích đã tái phạm. Đồng thời, Công văn 196/TANDTC-PC hướng dẫn: - Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc). - Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa...) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội”.
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn HOÀNG QUẢNG LỰC (Phó Chánh án TAND tỉnh Quảng Bình) - Điều 54 của BLHS năm 2015 quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong thực tiễn áp dụng quy định này còn có những cách hiểu khác nhau. Bài viết bàn về vướng mắc này để áp dụng điều luật cho phù hợp. 1.Quy định của pháp luật Điều 54 của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng quy định như sau: 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Hiện nay việc áp dụng điều luật này để xét xử bị cáo trong trường hợp bị cáo phạm vào điều khoản có khung hình phạt quy định là chỉ có loại hình phạt tù có thời hạn, hoặc có các loại hình phạt gồm tù có thời hạn, tù chung thân, hoặc có các loại hình phạt gồm cả tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và điều khoản liền kề nhẹ hơn có khung hình phạt quy định cả loại hình phạt tù có thời hạn và loại hình phạt khác là cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền hoặc đồng thời cả hai loại hình phạt này, thì Tòa án có được phép áp dụng loại hình phạt tiền hoặc loại hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo hay không đang là vấn đề có các quan điểm khác nhau. Ví dụ Điều 321 BLHS về tội đánh bạc quy định: 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Vậy khi bị cáo phạm tội thuộc khoản 2 Điều 321 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51BLHS, thì Tòa án có được áp dụng loại hình phạt tiền hay loại hình phạt cải tạo không giam giữ để xét xử đối với bị cáo không, hay chỉ được áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm ở khung hình phạt quy định tại khoảng 1 Điều 321 BLHS. 2.Quan điểm khác nhau Vấn đề này hiện có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất của số đông cho rằng Điều 54 BLHS quy định như vậy có nghĩa là khi bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với bị cáo. Cụ thể nếu bị cáo phạm tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS, thì trong trường hợp bị cáo đủ điều kiện để được áp dụng Điều 54 BLHS, Tòa án được quyền áp dụng loại hình phạt tiền hoặc loại hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo. Quan điểm thứ hai cho rằng Điều 54 BLHS không có câu chữ nào nói rằng khi bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với bị cáo. Điều luật này chỉ cho phép Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, hoặc không bắt buộc phải trong khung khung hình phạt liền kề nhẹ hơn trong trường hợp bị cáo phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Hai điều này là hoàn toàn khác nhau. Khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo trong ví dụ này là khung phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Do đó một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt này chỉ có thể là một hình phạt tù ở mức phạt tù từ 3 tháng đến dưới 3 năm, không thể là một hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc một hình phạt tiền. Sở dĩ chúng ta buộc phải hiểu như vậy là vì theo quan điểm của Nhà làm luật chỉ có thể đặt ra sự so sánh sự cao thấp trong cùng loại hình phạt, không thể đặt ra sự so sánh cao thấp giữa các loại hình phạt khác nhau, cụ thể không thể cho rằng một hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc một hình phạt tiền nào đó là thấp hơn hay cao hơn một hình phạt tù có thời hạn nào đó. Quan điểm này được thể hiện rất rõ qua việc trình bày ở khoản 3 Điều 54 BLHS. Đó là nếu có thể đặt ra sự so sánh cao thấp giữa các loại hình phạt khác nhau thì khoản 3 Điều 54 BLHS chỉ cần trình bày như sau là đã đầy đủ ý: “3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”; không cần phải đưa thêm cả cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”. Việc đưa thêm cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn” vào khoản 3 Điều 54 BLHS là bởi quan điểm của Nhà làm luật là một hình phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ cụ thể nào đó không được coi là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn cụ thể nào đó. Còn nếu coi một hình phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ cụ thể nào đó luôn là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn thì cụm từ “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”đã bao hàm trong đó các loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nên việc viết thêm cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là thừa”. Nhưng việc trình bày ở khoản 3 Điều 54 BLHS là có dụng ý rõ ràng của Nhà làm luật, chứ không phải là sự sơ suất dẫn đến trình bày thừa. Như vậy việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn so với loại hình phạt quy định ở khung hình phạt mà bị cáo phạm phải không được áp dụng đối với trường hợp bị cáo phạm vào tội mà điều luật quy định có nhiều khung hình phạt và khung hình phạt mà bị cáo phạm phải không phải là khung hình phạt nhẹ nhất. Tác giả đồng tình quan điểm này. Trong những năm gần đây, các loại tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc đang diễn ra khá phức tạp ở nhiều địa phương trên toàn quốc, trong đó việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội ngày càng phổ biến, tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá ngày càng tăng. Tuy vậy ở một số địa phương hầu hết các trường hợp phạm tội theo khoản 2 Điều 321 BLHS đều được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ, với lý do bị cáo có đủ điều kiện để được áp dụng Điều 54 BLHS, mà khoản 1 Điều 321 BLHS khung hình phạt có quy định loại hình phạt cải tạo không giam giữ, nên việc cho bị cáo được hưởng loại hình phạt này là hoàn toàn đúng pháp luật. Thực trạng trên làm cho việc xử lý loại tội phạm này vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Xin dẫn chứng vụ án điển hình sau: Khoảng đầu năm 2020, Trần thế H và vợ là Võ Thị Kiều Tr với sự giúp sức của Nguyễn Thị Ng, Trịnh Thị Thu H làm chủ số lô, số đề thỏa thuận với một số người quen biết khác về việc đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề dựa trên kết quả mở thưởng của các Công ty Xổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và Miền Bắc. Các thư ký đề hàng ngày trực tiếp bán số lô, số đề cho các con bạc là khách qua đường, đến cuối ngày tổng hợp thành bảng đề và chuyển lại cho Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H thông qua ứng dụng mạng xã hội zalo, tin nhắn điện thoại và tài khoản facebook. Việc thanh toán thắng thua căn cứ kết quả mở thưởng xổ số trong ngày bán. Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H quy ước với các thư ký và những người quen biết đánh bạc như sau: Dự đoán số theo thống nhất từ trước và đặt cược các con số theo kết quả xổ số kiến thiết mở thưởng của các Công ty Sổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và Miền Bắc. Nếu dự đoán trùng với kết quả thì thắng, dự đoán không trùng thì thua. Việc thắng thua được thanh toán bằng tiền mặt. Các bảng đề chuyển cho Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H vào thời gian trước 17 giờ 10 phút đối với Xổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và trước 18 giờ 10 phút đối với Xổ số kiến thiết Miền Bắc. Khi nhận được bảng đề, bên nhận kiểm tra lại, nếu không chấp nhận số đánh thì liên lạc lại. Với cách thức như trên, trong khoảng thời gian từ ngày 12/3/2020 đến ngày 14/3/2020, Trần Thế H, Võ Thị Kiều Tr, Trịnh Thị Thu H, Trần thị H và Lê Anh S đã nhiều lần đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc của mỗi người như sau: Trần Thế H 415. 574.000 đồng, Võ Thị Kiều Tr 415.574.000 đồng, Trịnh Thị Thu H 228.748.000 đồng, Trần thị H 120.878.000 đồng và Lê Anh S 132.983.000 đồng. Năm bị cáo trên bị truy tố về tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS. Mười ba bị cáo còn lại cũng đều thực hiện việc đánh bạc nhiều lần, với tổng số tiền đánh bạc của mỗi người dưới 50 triệu đồng, bị Viện kiểm sát truy tố theo khoản 1 Điều 321 BLHS về tội đánh bạc. Tòa án xét xử vụ án đã áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, mức án từ 25 đến 36 tháng cho tất cả 18 bị cáo của vụ án, trong đó có 5 bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 321 BLHS, 13 bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 321 BLHS và trong số 18 bị cáo này có một số bị cáo đã từng bị phạt tù, bị xử phạt hành chính về các hành vi đánh bạc, trộm cắp tài sản. 3.Kiến nghị Từ thực tế của việc áp dụng rất có vấn đề về Điều 54 BLHS như trên, tác giả xin có mấy kiến nghị sau: Thứ nhất, ngày 4/8/2000 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có ban hành Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999. Tại mục 10 về áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999, Nghị quyết đã hướng dẫn như sau: “ Quy định "Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật" được áp dụng trong trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu các khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2, 3... và từ nhẹ nhất đến nặng nhất, thì theo quy định này khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, Toà án chỉ có thể quy định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2; Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 2, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3... Ví dụ: Một người phạm tội trộm cắp tài sản và có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, việc áp dụng quy định trên đây của Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: - Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 2 năm tù, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 1; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 6 tháng đến dưới 2 năm hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm. ...”. Theo tác giả nội dung hướng dẫn này là trái với Điều 47 BLHS năm 1999. Lý do như đã phân tích ở trước, đó là theo tinh thần của Điều 47 BLHS năm 1999 (cũng như tinh thần của Điều 54 BLHS hiện hành), chỉ có thể coi các loại hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền là các loại hình phạt nhẹ hơn loại hình phạt tù có thời hạn mà không thể coi một hình phạt tiền, hoặc một hình phạt cải tạo không giam giữ là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn. Nếu cho rằng một hình phạt tiền hoặc một hình phạt cải tạo không giam giữ là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn thì giải thích như thế nào quy định tại Điều 196 BLHS về tội đầu cơ, theo đó khoản 3 của Điều luật này có quy định mức phạt (hình phạt chính) từ một tỉ rưỡi đồng đến 5 tỉ đồng, trong khi đó khoản 1 của Điều luật lại có quy định mức phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm? Do đó việc hướng dẫn cho người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 có thể được hưởng loại hình phạt cải tạo không giam giữ là không thỏa đáng. Mặc dù Nghị quyết này đã hết hiệu lực pháp luật, nhưng tinh thần này của Nghị quyết này đến nay nhìn chung vẫn được các Tòa án áp dụng. Để khắc phục tình trạng này thiết nghĩ Hội đồng Thẩm phán TANDTC nên ban hành Nghị quyết mới hướng dẫn lại vấn đề này theo đúng tinh thần của BLHS. Thứ hai, BLHS có một số điều luật quy định về tội phạm mà khi người phạm tội phạm vào các điều luật này, thì người phạm tội dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, Tòa án cũng không thể áp dụng Điều 54 BLHS để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo được. Ví dụ Điều 336 của BLHS về tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật quy định như sau: “1. Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên; b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Với quy định như vậy trong trường hợp bị cáo phạm vào khoản 2 của Điều luật này thì Tòa án không thể áp dụng được Điều 54 BLHS để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo được, dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Lý do của việc này như đã phân tích ở phần trước. Do đó về lâu dài BLHS cần phải được sửa đổi để khắc phục hạn chế này. Ví dụ như điều luật này cần sửa đổi như sau: “1. Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 2 năm đến 3 năm, hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên; b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Với sửa đổi như vậy sẽ khắc phục được hạn chế trên./. Theo Tạp chí tòa án
Phân tích Cấu thành tội phạm của tội Cưỡng đoạt tài sản
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Căn cứ pháp lý của tội cưỡng đoạt tài sản Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2015") như sau: 1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: (a) Có tổ chức; (b) Có tính chất chuyên nghiệp; (c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; (d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; (đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; (b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Các yếu tố cấu thành của tội cưỡng đoạt tài sản (i) Mặt khách quan của tội phạm: Thể hiện ở hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. - Về hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực là hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian. Cho nên, người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. - Về hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (như đe dọa hủy hoại tài sản, loan tin về đời tư, tố giác hành vi phạm pháp…của người bị đe dọa). - Lưu ý, tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi phân tích ở trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không. (ii) Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. (iii) Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (phạm tội thuộc các khoản 2,3,4) và có năng lực trách nhiệm hình sự. (iv) Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cùng lúc xâm hại đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ sở hữu. Trong đó, việc xâm hại đến quan hệ nhân thân không phải mục đích của tội phạm mà chỉ đe dọa tinh thần làm cho người bị cưỡng đoạt phải giao tài sản. Trường hợp chuyển hóa tội danh Tội cưỡng đoạt tài sản có thể chuyển hóa thành tội cướp tài sản trong trường hợp: Người phạm tội không chỉ dừng lại ở hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản mà dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Luật sư Nguyễn Duy Hội - Trưởng Chi nhánh Hà Nội Công ty Luật TNHH Everest
Sản xuất, buôn bán nước rửa tay giả bị xử lý như thế nào?
Theo Vnexpress, ngày 09/02/2020, Công an tỉnh Thái Bình đang tạm giữ hàng nghìn chai nước rửa tay, tinh dầu của Công ty Thiên Y Việt mang nhãn hiệu Rencide III, Hand sanitizer không đảm bảo chất lượng, không có tác dụng kháng khuẩn để phục vụ điều tra hành vi sản xuất hàng giả. Vậy sản xuất, buôn bán hàng giả bị xử lý như thế nào? Sản xuất hàng giả là hành vi sản xuất ra các loại hàng hóa tiêu dùng không đảm bảo chất lượng, đúng kiểu dáng, nhãn hiệu và chất lượng đã đăng ký, hoặc nhái lại kiểu dáng của hãng nổi tiếng đã đăng ký bản quyền. Buôn bán hàng giả là hành vi mua hàng biết rõ là hàng giả với giá rất rẻ và dùng các thủ đoạn gian dối để bán cho người tiêu dùng với giá của hàng thật. Theo định nghĩa tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP thì hàng giả là: “Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký”. Hiện tại, việc xử lý cá nhân, pháp nhân sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại 02 văn bản pháp luật sau đây: *Thứ nhất, tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm. Trong đó, từ Điều 11 đến Điều 15 quy định mức phạt tiền từ 500.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với từng hành vi vi phạm. Đồng thời, Nghị định này còn có quy định về mức phạt tăng thêm trong từng trường hợp cụ thể. *Thứ hai, tại Bộ Luật hình sự 2015 - Điều 192 Bộ Luật hình sự 2015 về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và khoản 42 Điều 1 Bộ Luật hình sự sửa đổi 2017 quy định 03 khung hình phạt sau: Khung 1: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp quy định tại khoản 1. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp được quy định tại khoản 2. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3. Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại khoản 5 Điều 192 Bộ luật hình sự 2015 và khoản 42 Điều 1 Bộ luật hình sự sửa đổi 2017 Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Như vậy có thể thấy, pháp luật hiện tại đã có quy định khá chi tiết về cách xử phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ảnh hưởng đến quyền lời người tiêu dùng. Tùy từng hành vi, số lượng hàng giả, tính chất của hàng giả và mức độ vi phạm của chủ thể mà sẽ có mức phạt tương ứng.
Mọi người giúp em giải quyết tình huống pháp luật này với: Tình huống như sau: Nguyễn Văn H ( 34 tuổi ) là chủ xe, thuê Lê Văn K (27 tuổi ) chở gạo cho mình. Khi xe đang lưu thông trên đường quốc lộ, H bảo K :" Trông chú mày có vẻ mệt, anh lái cho 1 đoạn " . K biết rõ H không có bằng lái xe nhưng biết lái xe. Vì nể chủ xe K đã giao lái cho H, chạy được một đoạn thì H tăng tốc, cho xe lấn sang trái để vượt lên xe phía trước thì va chạm vào xe của M đang lưu thông ngược chiều, làm anh M chết tại chỗ. Hỏi : (1) H đã có dấu hiệu phạm tội gì ? Thuộc hình phạt nào ? Tại sao ? (2) K có phạm tội không ? Nếu có thì K có dấu hiệu phạm tội gì ? Mọi Người Giúp Em Với ! Em cảm ơn trước nha Xử lý theo BLHS 2015 nha !
BLHS 2015 bổ sung mới và bãi bỏ tội danh nào?
Chào mọi người. Mong mọi người giúp mình câu hỏi này ạ: "So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã bổ sung mới và bãi bỏ những tội danh nào?" Mong mọi người giúp đỡ. Cảm ơn mọi người nhiều ạ!
Ông Nguyễn Hữu Linh sắp bị đưa ra xét xử
Ngày 22/5/2019, VKSND quận 4, TP. Hồ Chí Minh đã hoàn tất cáo trạng, chuyển hồ sơ sang toà án quận 4 để đưa ra xét xử ông Nguyễn Hữu Linh (61 tuổi) về hành vi "dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" (Điều 146 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)). Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Trước đó, theo thông tin các báo đã nêu, tối 1/4/2019 tại chung cư Galaxy 9, quận 4, ông Nguyễn Hữu Linh, nguyên Viện phó VKSND thành phố Đà Nẵng, đã có hành vi ôm ghì, hôn và được cho là có hành vi sờ mó bé gái 7 tuổi trong thang máy. Toàn bộ hành vi này đã bị camera ghi lại. Hành vi của ông Nguyễn Hữu Linh đã gây bức xúc dư luận trong một thời gian dài. Việc đưa ra xét xử vụ án khẳng định sự quyết tâm của cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh với tội phạm xâm hại tình dục đang diễn biến rất phức tạp hiện nay. Nguồn: VnExpess
Phân loại các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu theo Bộ luật hình sự 2015
Tội phạm xâm phạm sở hữu có thể được định nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ độ tuổi chịu trách nhệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọạ gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội xâm phạm sở hữu quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây: + Hành vi chiếm đoạt tài sản là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản “của mình”… + Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. + Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó. + Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư hỏng + Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể. =>Từ các đặc điểm của hành vi khách quan khác nhau như trên, có thể phân loại Tội xâm phạm sở hữu thành các loại: Nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt Gồm 8 tội danh: + Tội cướp tài sản (Điều 168); + Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); + Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); + Tội cướp giật tài sản (Điều 171); + Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); + Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); + Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). Nhóm tội không có tính chất chiếm đoạt Gồm 2 tội danh: + Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176); + Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) Nhóm tội không có tính vụ lợi, không chiếm đoạt Gồm 3 tội danh: + Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178); + Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179); + Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180). Kết luận: Việc hiểu và nhận thức đúng về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu và cách phân loại giúp cho việc xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm lẫn giữa các tội danh. Đặc biệt đối với các cơ quan có thẩm quyền trong điều tra chứng minh tội phạm được chính xác, bảo đảm xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.
Bình luận tội giết người theo BLHS năm 2015
1. Khái niệm Tội giết người Trên cơ sở quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015, chúng tôi rút ra khái niệm Tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện. Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của khái niệm này chính là khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. 2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào có thể so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Khi quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu. Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ xã hội. Nếu quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì những lý do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người luôn được đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế độ. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người mà trong các BLHS từ năm 1985 đến nay, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đều đã quy định Tội giết người. Điều này càng khẳng định, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thật sự thiêng liêng, cao quý, cần được bảo vệ một cách tuyệt đối. Bất cứ ai xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc. Tội giết người xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động - con người đang sống. Việc xác định đúng đối tượng tác động của Tội giết người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, vì vậy, hành vi đó không phạm tội giết người. Mặt khách quan Hành vi khách quan Hành vi khách quan của Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Hành vi khách quan của Tội giết người là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là hành vi đó phải gây ra hoặc có khả năng gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật. Những hành vi không gây ra và cũng không có khả năng gây ra cái chết cho người khác hoặc tuy có khả năng gây ra cái chết cho người khác, nhưng không trái pháp luật (như hành vi phòng vệ chính đáng, hành vi thi hành án tử hình...) thì đều không phải là hành vi khách quan của Tội giết người. Nghiên cứu hành vi khách quan của Tội giết người cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ là hành vi cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua các tiêu chí cơ bản sau đây: Thứ nhất, nếu nạn nhân bị chết do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì: Định Tội giết người khi người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi người phạm tội chỉ vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, trước đó người phạm tội không có bất kỳ hành vi cố ý nào xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân. Thứ hai, nếu nạn nhân bị chết không phải do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà do hành vi của người phạm tội cố ý gây ra, thì người thực hiện hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân chỉ có thể phạm tội giết người mà không phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hậu quả Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất - hậu quả chết người khác. Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật - giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có khả năng hồi phục. Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, căn cứ vào dấu hiệu pháp lý của hai tội phạm này chúng tôi thấy, Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khác nhau ở những điểm cơ bản sau đây: Một là, về khách thể của tội phạm, nếu khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người thì khách thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy cũng là quan hệ nhân thân, nhưng nội dung của nó lại là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ của con người; hai là, về lỗi của người phạm tội, nếu lỗi của người phạm tội giết người (phạm tội chưa đạt) chỉ là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (mong muốn nạn nhân chết), thì lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác lại có thể là: a) Lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (mong muốn hoặc bỏ mặc, chấp nhận gây tổn thương cơ thể cho nạn nhân) hoặc b) Lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (bỏ mặc, chấp nhận hậu quả nạn nhân chết nhưng hậu quả này đã không xảy ra). Sở dĩ trường hợp cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu nạn nhân không chết thì không định Tội giết người (chưa đạt) mà chỉ có thể định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, bởi vì trong trường hợp này, người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra; do đó, nếu nạn nhân không chết thì không thể buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người - điều mà họ không mong muốn và nó cũng không xảy ra trên thực tế. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác qua các tiêu chí cơ bản sau đây: 1) Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội giết người (phạm tội chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn hậu quả nạn nhân chết xảy ra. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội; 2) nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân mà chỉ là lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân hoặc lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm này). Mối quan hệ nhân quả Hành vi khách quan của Tội giết người được coi là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người khác nếu thoả mãn ba điều kiện: 1) Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; 2) Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác. Khả năng này chính là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Khả năng gây chết người của hành động là dùng dao sắc nhọn đâm vào ngực nạn nhân hay của không hành động là không cho trẻ sơ sinh ăn, uống...; 3) Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của Tội giết người hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Xác định đúng nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người khác không những giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vấn đề có hành vi xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác xảy ra hay không mà còn có thể kết luận ai là người đã thực hiện hành vi đó. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử Tội giết người trong những năm gần đây cho thấy, không ít trường hợp, do xác định không đúng mối quan hệ nhân quả nên đã xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Chúng tôi xin đưa ra 1 vụ án cụ thể: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 84 ngày 31/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh H đã tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người. Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/HS-TK ngày 31/3/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy phần tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người của Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo hướng kết án Bùi Văn H về Tội giết người. Bởi lẽ, Bùi Văn H là người tham gia thực hiện tội phạm một cách tích cực. Khi thấy anh T chạy từ trong nhà ra, H đã cầm côn đánh liên tiếp vào anh T làm anh T bị ngã, tạo điều kiện để Nh xông vào dùng dao đâm anh T. Trên người anh T không phải duy nhất chỉ có vết dao đâm của Nh mà có rất nhiều vết thương bầm tím do vật tày gây ra phù hợp với hung khí là côn do H sử dụng. Vì vậy, có đủ căn cứ để kết luận hậu quả anh T bị chết là do hành vi phạm tội của Nh, Lê Đình Th, Lê Đình H và Bùi Văn H gây ra (1). Chủ thể Chủ thể của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người phải đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, độ tuổi cũng là điều kiện của chủ thể của Tội giết người. Theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Quy định này cho thấy, một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thoả mãn hai dấu hiệu: Dấu hiệu y học, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh và dấu hiệu tâm lý, mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Người mắc bệnh trong trường hợp này: 1) Hoặc không còn năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội, không còn năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện đúng hay sai, được làm hay không được làm... Vì vậy, họ cũng không còn năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội; 2) hoặc tuy có năng lực nhận thức và năng lực đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm, nhưng do các xung động bệnh lý khiến họ không thể kiềm chế được hành vi của mình. Quy định trên cho thấy, người nào tuy mắc bệnh tâm thần, nhưng không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Đây thực chất là trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế - một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên (2). Quy định này dựa trên cơ sở nghiên cứu tâm sinh lý con người Việt Nam, truyền thống lập pháp và chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt chủ quan Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Theo quy định tại Điều 10 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết. Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết. Nghiên cứu lỗi của người phạm giết người giúp phân biệt Tội giết người với Tội vô ý làm chết người. Nếu lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý (với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết) thì lỗi của người phạm tội vô ý làm chết người chỉ là lỗi vô ý (vô ý với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết). Thực tiễn xét xử cho thấy, để định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua tiêu chí cơ bản sau đây: Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là cố ý thì định Tội giết người. Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn nạn nhân chết hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết. Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là vô ý thì có thể định tội vô ý làm chết người. Đây là trường hợp người phạm tội không những không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, cũng không có thái độ “thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà còn không thấy trước được hậu quả đó mà đáng lẽ ra phải thấy hoặc có thể thấy hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra”. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội danh, xác định đúng hình thức lỗi còn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Bởi lẽ, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý gián tiếp, sự quan tâm của người phạm tội không hướng vào hậu quả chết người khác mà hướng vào mục đích khác. Do đó, tất cả những gì xảy ra đối với nạn nhân do hành vi phạm tội đưa lại đều có thể không có tác động gì đến người phạm tội. Ngược lại, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội không những hướng tất cả sự chú ý vào việc gây ra hậu quả chết người khác mà còn cố gắng và quyết tâm gây ra hậu quả đó. Họ sẽ tiếp tục hành động, thậm chí còn hành động cương quyết và mạnh mẽ hơn chừng nào còn có biểu hiện là nạn nhân chưa chết, chưa bị tổn thương cơ thể hoặc chưa thể chết, chưa thể bị tổn thương cơ thể được. Cho nên, nếu các tình tiết khác tương đương, người phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp. Khác dấu hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của Tội giết người, động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, ở một số cấu thành tội phạm mà mặt khách quan cũng đòi hỏi dấu hiệu hành vi gây ra cái chết cho người khác, nhưng dấu hiệu động cơ hoặc mục đích phạm tội lại được quy định là dấu hiệu bắt buộc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác định đúng khung hình phạt và phân biệt được Tội giết người với một số tội phạm khác cũng có hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân. Cụ thể là: 1) Người nào cố ý gây ra cái chết cho người khác (thường là cán bộ, công chức hoặc công dân đang giữ những trọng trách nhất định) nhằm chống chính quyền nhân dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113); không nhằm chống chính quyền nhân dân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người. 2) Người nào trong khi thi hành công vụ, xuất phát từ động cơ thi hành công vụ mà cố ý gây ra cái chết cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127); nếu do hống hách, coi thường tính mạng người khác hoặc do tư thù cá nhân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người. 3) Người nào cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); nếu không thỏa mãn các điều kiện trên thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. 4) Người nào vì muốn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà cố ý gây ra cái chết cho người đang xâm phạm những lợi ích nói trên một cách rõ ràng quá mức cần thiết thì không phạm tội giết người mà phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126). (Còn nữa) Nguồn: Kiểm sát online
Những điều cần biết khi người nước ngoài phạm tội hình sự tại Việt Nam
Đầu tiên, xác định định đối tượng nước ngoài có nằm trong trường hợp VN phải tiến hành xử lý TNHS - Trường hợp 1: Khoản 2, Điều 5 BLHS sửa đổi 2017. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. - Việc người nước ngoài được thuộc trường hợp ưu đãi miễn trừ ngoại giao thì không được bắt giữ hoặc có hành vi xâm phạm thân thể họ Trường hợp 2: Khoản 2 Điều 6 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Thứ hai, đưa ra hướng xử lý đối với hành vi phạm tội của người nước ngoài Đối với TH1: >>> Thông thường, thì người được hưởng đặc quyền ngoại giao là những người đứng đầu cơ quan nhà nước, những đại diện ngoại giao, các thành viên của đoàn ngoại giao,… do không quy định cụ thể các trường hợp được hưởng nên việc áp dụng với các đối tượng là nước ngoài khá rộng. Vì vậy cần thiết để đưa ra một nội dung cụ thể cho việc này Đối với TH2: >>> Theo quy định tại khoản này thì người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu TNHS thuộc vào các trường hợp ĐƯQT mà nước CHXHCNVN ký kết với nước tham gia hoặc theo tập quán quốc tế thì người đó vẫn phải chịu TNHS . Có 2 khả năng xảy ra với trường hợp này: 1. Người nước ngoài đó sẽ được dẫn độ về nước sở tại nếu được VN chấp nhận 2. VN từ chối việc dẫn độ để trực tiếp xét xử hành vi phạm tội của công dân nước tham gia ký kết ĐƯQT
Mức xử lý nào cho cô giáo xúc phạm học sinh là "Lợn"?
"Mày nói đứa nào lừa đảo? Mày bảo tao lừa đảo à? Mày tự bước vào đây chứ tao lừa đảo mày à?...Tao nói cho mày biết ở ngoài kia, 1 hay 10 trung tâm cũng không thể biến mày từ con lợn thành con người được đâu!..." Chợt rùng mình khi mới vài giờ trước đọc tin cô giáo vì 100k mà chửi mắng học viên một cách vô cùng phản cảm. Và sau khi bị trở thành tâm điểm, nhân vật chính là cô giáo cũng đã lên tiếng, tuy nhiên không phải biện hộ, sửa sai mà i như rằng hành vi của mình là hoàn toàn đúng, ngoài ra còn nhấn mạnh những lời lẽ xưng hô vô cùng chợ búa mà trong ngành gọi là “thợ dạy”. Không chấp nhận sự xuống cấp đạo đức của người giáo viên có thể như vậy. Đầu năm qua đã quá đỗi kinh hoàng khi hàng loạt các vấn đề về tư cách đạo đức nghề giáo trở thành đề tài nóng. Theo quan điểm cá nhân và những quy định pháp luật hiện hành về hướng xử lý đối với hành vi trên như sau: Về xử phạt hành chính: Luật giáo dục quy định tại Điều 75 về Các hành vi nhà giáo không được làm: - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học; - Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học; - Xuyên tạc nội dung giáo dục; - Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền Nghị định 138/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, ngược đãi, xâm phạm thân thể người học. Hình thức xử phạt bổ sung: Đình chỉ giảng dạy từ 1 tháng đến 6 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản này >>> Như vậy, với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, ngược đãi, xâm phạm thân thể người học sẽ bị phạt 5 triệu đến 10 triệu đồng. Giáo viên có hành vi này còn bị đình chỉ giảng dạy từ 1 tháng đến nửa năm. Ngoài ra, trong câu chuyện trên, việc cô giáo ép thu 100k/học sinh/hành vi phạm lỗi cũng là một hành vi đáng để xử phạt hành chính Điều 24 Nghị định này xử lý vi phạm quy định về học phí, lệ phí và các khoản thu khác “.. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức thu các khoản trái quy định…” Xử lý hình sự: Tùy theo mức độ và hậu quả của hành vi được xác định, có thể thấy việc sử dụng ngôn từ thiếu chuẩn mực ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của học sinh, luật của nhà nước cũng trở nên bất thành văn. Hành vi của cô giáo đó có thể quy kết vào tội phạm theo điều 155 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. >>> Như vậy, ngoài việc phải chịu những hình thức xử lý liên quan đến hành chính thiết nghĩ một khi đã bộc lộ những hạn chế từ việc đối xử thiếu văn hóa với học viên thì cô giáo này đáng bị đình chỉ hoạt động giảng dạy. Ngoài ra, việc truy cứu TNHS cần được đưa vào để cân nhắc xứng đáng với hành vi trên, xử lý nghiêm minh mới phòng mức độ lây truyền về sau, đừng để “con sâu làm rầu nổi canh”. Bạn có mức đề xuất nào đối với hành vi này?
Thực tế hiện nay mình thấy việc các cá nhân hành nghề xem bói, xóc thẻ,… ngày một phổ biến. Người dân cũng nỗi lo xa nên thường tin vào những phù phép sau đó truyền tai chỗ này, chỗ kia, những điều này vô tình tiếp tay cho những đối tượng hành nghề. Dưới đây là nội dung pháp luật đã quy định để kiểm soát và xử lý như sau: + Xử lý hành chính: Khoản 2 Điều 15 Nghị định 158/2013/NĐ-CP quy định vi phạm về nếp sống văn hóa như sau: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Lợi dụng hoạt động lên đồng, xem bói, gọi hồn, xin xăm, xóc thẻ, yểm bùa, phù chú, truyền bá sấm trạng và các hình thức tương tự khác để trục lợi - Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi + Xử lý Hình sự: Điều 320 Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về “Tội hành nghề mê tín, dị đoan” 1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: - Làm chết người; - Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên; - Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Như vậy, với các hành vi trên mà đã bị xử lý hành chính hoặc bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội hành nghề mê tín, dị đoan. Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, những quy định của pháp luật đang dần trở nên “bất thành văn” khi chúng ta có thể thấy sự ảnh hưởng và sự nhận rộng về vấn đề này ngày một gia tăng. Chế tài chưa đủ sức răn đe chăng?
Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyên tắc suy đoán vô tội. >>> Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy suy đoán vô tội + Quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về suy đoán vô tội: - Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. + Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc: Thứ nhất, trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội phải được thu thập cụ thể, chính xác. Thứ hai, tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó >>> Thực tiễn hiện nay cho thấy một số hành vi đưa tin không trung thực, chính xác, khách quan, quy kết tội danh, luận tội... khi chưa có bản án kết tội của Tòa án như: + Sử dụng ngôn từ, hình ảnh miệt thị đối với người bị quy kết có tội và gia đình của họ + Suy diễn diễn biến câu chuyện từ đó biến tấu nhằm thu hút người xem + “đào bới” thông tin trong quá khứ của nghi phạm, “moi móc” thông tin về người thân theo hướng bất lợi cho nghi phạm >>> Với những hành vi trên, chủ thể có thể bị áp chế tài theo quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%75. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên76; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 156. Tội vu khống 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đ) Đối với người đang thi hành công vụ; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%77; h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Vì động cơ đê hèn; b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên78; c) Làm nạn nhân tự sát. Với những nôi dung trên đang giác ngộ chúng ta hãy hành xử một cách đúng đắn, những điều ta nghe và thấy chưa chắc là đúng sự thật, đừng vội "kết luận" bất cứ điều gì.
Điều kiện hoạt động hợp pháp của tổ chức tôn giáo
Thời gian rồi sự xuất hiện của Hội thánh đức chúa trời làm khuynh đảo tâm lý cộng đồng bởi sức ảnh hưởng và những hậu quả đang tiềm tàng, đến đây nhìn nhận lại những vấn đề pháp lý mà pháp luật đã điều chỉnh về quyền được gọi là “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” * Điều 18 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định về điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: - Có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; - Có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; - Tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc; - Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; - Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở; - Nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Luật này. * Về điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo Tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: - Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; - Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; - Có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; - Có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo. * Chế tài xử lý vi phạm - Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 64). Được cụ thể như sau: + Phạt tiền đến 30.000.000 đồng nếu vi phạm quy định về lĩnh vực tôn giáo theo quy định tại điều 24 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 + BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về các tội phạm trong tín ngưỡng, tôn giáo như sau: - Hành vi gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị - xã hội sẽ bị quy vào Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116) - Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác có thể bị phạt tù đến 3 năm (Điều 164) - Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nếu người nào lợi dụng các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. (Điều 331) * Xử lý vi phạm với cán bộ, công chức Điều 65 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định: Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm sau đây: - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; - Thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; - Vi phạm quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Trên đây là những nội dung cần thiết liên quan đến việc hoạt động của các cơ sở tôn giáo, qua đó xét lại thực tiễn đang có vấn đề gì mà những tổ chức tự xưng là tôn giáo vẫn ngang nhiên tồn tại mặc dù không được phép như vậy?
TANTC hướng dẫn áp dụng quy định hiệu lực của BLHS 2015
TANDTC vừa ban hành Công văn 04/TANDTC-PC về việc áp dụng BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội, cụ thể: 1. Tất cả điều khoản của BLHS 2015 áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 2. Những điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ tội phạm, hình phạt, tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ; miễn giảm TNHS...và những quy định có lợi cho người phạm tội (NPT) áp dụng với cả hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 mà sau đó mới bị phát hiện, hoặc đang bị truy tố, xét xử... 3. Các tội phạm mới đựơc quy định tại BLHS 2015..và những quy định không có lợi cho người phạm tội nếu phát hiện có hành vi phạm tội như trên xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018, mà sau đó mới bị phát hiện, truy tố, xét xử... thì không áp dụng quy định của BLHS 2015 mà áp dụng quy định những văn bản có hiệu lực từ trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 4. Các tội đựơc tách ra từ tội ghép, nếu có lợi cho NPT thì áp dụng với cả những hành vi xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018, nếu bất lợi thì áp dụng quy định những văn bản có hiệu lực từ trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 5. Các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, giá trị lớn, giá trị rất lớn...của BLHS 1999 nếu đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 thì vẫn áp dụng quy định của BLHS 1999 để khởi tố , điều tra, truy tố, xét xử. 6. Hành vi đã có bản án, quyết định của Tòa đã có hiệu lực trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 thì không căn cứ vào những quy định của BLHS 2015 có nội dung khác với điều luật đã áp dụng tuyên án để giám đốc thẩm
Danh sách 93 Điều luật bị sửa đổi của BLHS 2015
Bộ Tư Pháp vừa trình Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các điều của Bộ Luật Hình sự 2015, trong đó sửa đổi 93 điều. Có 48 điều bị sửa đổi về nội dung và 45 điều chỉ sửa lỗi thuần túy về kỹ thuật. Mình xin gửi đến bản phân tích lỗi để mọi người tham gia góp ý kiến, với hy vọng sẽ không phải ban hành văn bản sửa thêm lần nữa: 1. Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự - Bỏ viện dẫn Điều 285 vì đây là tội phạm nghiêm trọng. - Sửa đổi Khoản 2_bỏ phần: về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. 2. Điều 14. Chuẩn bị phạm tội Thêm Điểm c Khoản 2: Điều 207 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả). Lý do: Để bảo đảm thống nhất giữa Điều 14 và Điều 207. 3. Điều 19. Không tố giác tội phạm Sửa đổi Khoản 1: Người nào biết rõ tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 14 đang được chuẩn bị hoặc tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 390 Điều 389 của Bộ luật này. Lý do: Để bảo đảm phù hợp với khoản 2 Điều 14. 4. Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng Sửa đổi Khoản 3: 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc (thêm) chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Lý do: Để bảo đảm linh hoạt trong áp dụng và kế thừa quy định của BLHS năm 1999 5. Điều 71. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án 1. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án. 2. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm; 3. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. Lý do: - Ý kiến 1: Để bảo phù hợp với Điều 61 về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án - Ý kiến 2: Đây là lỗi từ BLHS năm 1999 và thực tiễn không thấy vướng mắc gì, vì vậy không nên sửa. 6. Điều 81. Cấm huy động vốn Sửa kỹ thuật: Thay cụm từ “cấm vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoăc quỹ đầu tư” bằng cụm từ “các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc các quỹ đầu tư” tại điểm a khoản 2. Lý do: Phù hợp với Điều 4 Luật tổ chức tín dụng 7. Điều 85. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại Bỏ Khoản 1 Điểm d: d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; 8. Điều 86. Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội Sửa đổi Điểm b, c Khoản 1: b) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn cùng lĩnh vực thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với lĩnh vực đó; c) Nếu hình phạt đã tuyên cùng là đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc cùng là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với từng lĩnh vực cụ thể thì không tổng hợp;
Sửa đổi BLHS 2015 sao giống sửa đường quá vậy?
Theo báo điện tử ĐCSVN Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 (Luật sửa đổi) đã họp và thống nhất đề xuất sửa đổi, bổ sung 119 điều của BLHS 2015. Theo kế hoạch, dự án này sẽ được Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội thẩm tra vào phiên họp đầu tháng 9 và được Quốc hội khoá XIV cho ý kiến, thông qua tại kỳ họp thứ hai diễn ra vào tháng 10. Phương án khắc phục lỗi sai Những sai sót tại BLHS 2015 đã quá rõ ràng và đó là lý do tại sao phải lùi ngày có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên đó là chuyện đã rồi, vấn đề quan trọng hơn là chọn cách nào để khắc phục sai sót. Có 2 phương án 1. Ban hành BLHS mới 2. Ban hành Luật sửa đổi BLHS Như chúng ta đã biết phương án 2 là phương án được lựa chọn. Như vậy một câu hỏi đặt ra là liệu phương án này có phải là phương án tốt nhất? chúng ta sẽ cùng phân tích. - Quy trình để ban hành một Luật sửa đổi BLHS cũng không khác gì quy trình ban hành BLHS mới vì Luật sửa đổi cũng là Luật và cũng phải được soạn thảo, thẩm tra và trình Quốc hội thông qua. Như vậy xét về mặt đầu tư thời gian, công sức và chi phí, phương án 2 không có gì nổi trội hơn phương án 1. - Sau khi thực hiện xong phương án 2, chúng ta có thêm một Luật nữa trong hệ thống các VBQPPL của Việt Nam đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015. Việt Nam đã nổi tiếng là nơi có năng suất sản xuất pháp luật thuộc hàng top của thế giới, nay lại có thêm một minh chứng rằng nhận định đó là có cơ sở. - Cùng lúc sử dụng cả BLHS và Luật sửa đổi để áp dụng vào thực tiễn là cả một vấn đề. Do vậy, bắt buộc sẽ có một văn bản quy phạm pháp luật nữa gọi là Văn bản hợp nhất BLHS 2015 để hợp nhất tất cả các nội dung đang còn hiệu lực của BLHS 2015 và Luật sửa đổi. Chính văn bản hợp nhất này mới thực sự được sử dụng trong thực tiễn vì nội dung của nó chỉ bao gồm những điều khoản còn hiệu lực. Người sử dụng (áp dụng) không phải ngó qua ngó lại cùng lúc 2 văn bản. Tuy nhiên chính nó cũng góp phần làm tăng năng suất sản xuất pháp luật của VN như đã đề cập. Tại sao không chọn phương án 1? Như đã phân tích phương án 2, sản phẩm cuối cùng được áp dụng phải là văn bản hợp nhất BLHS 2015 và Luật sửa đổi. Về bản chất và nội dung thì văn bản hợp nhất này chính là BLHS 2015 mới. Vậy tại sao ngay từ đầu chúng ta không ban hành luôn một BLHS 2015 mới? Xét về mặt quy trình, việc ban hành mới sẽ rút ngắn được công đoạn hơn vì không có khâu “ban hành văn bản hợp nhất” so với phương án ban hành Luật sửa đổi. Do vậy thời gian, công sức và chi phí cũng phải ít hơn. Phương án này chỉ có một hạn chế duy nhất là làm cho BLHS 2015 chết yểu khi mà nó chưa có hiệu lực đã phải bị thay thế bằng một BLHS mới. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của các nhà lập pháp.Tuy nhiên tôi cho rằng uy tín có thể cải thiện được nếu BLHS ban hành mới chỉnh chu về hình thức và chuẩn về nội dung. Kết luận BLHS 2015 có 426 Điều, nay phải sửa đến 119 Điều, nếu nói BLHS là một đại lộ thì đại lộ này có đến gần 30% là ổ gà, ổ vịt cần phải chắp vá. Việc sửa đổi, bổ sung không khác gì việc sửa đại lộ theo kiểu chắp vá, hư đâu sửa đó. Một đại lộ thì không thể được xây dựng theo kiểu đó được.
Quy trình hình thành BLHS 2015
Qua quan sát thực tiễn quy trình làm luật ở nước ta, tạm chia ra 17 công đoạn khi làm BLHS 2015 như sau: 1. QH chọn cơ quan soạn thảo dự luật (BLHS 2015 do Bộ Tư pháp soạn thảo); 2. Ban soạn thảo thành lập những tổ soạn thảo, các tổ này biên tập từng nội dung được giao; 3. Sau khi có đầy đủ dự thảo thì ban soạn thảo sẽ nghiệm thu; 4. Ban soạn thảo chủ trì việc lấy ý kiến các đoàn đại biểu QH và các ban ngành liên quan đến bộ luật; 5. Lấy ý kiến (có thể lấy nhiều lần và chú trọng vào các vấn đề còn có ý kiến khác nhau); 6. Ban soạn thảo họp để tiếp thu ý kiến của các nơi gửi về; 7. Ban soạn thảo chỉnh sửa dự thảo sau khi đã tiếp thu ý kiến trình Chính phủ; 8. Chính phủ trình dự thảo cho QH; 9. QH giao dự án luật cho các ủy ban chuyên môn (BLHS thì giao cho Ủy ban Tư pháp) thẩm định dự án luật; 10. Sau khi thẩm định, Ủy ban Tư pháp đưa dự án luật để UBTVQH cho ý kiến (có thể cho ý kiến một lần hoặc nhiều lần); 11. Nếu thống nhất thì UBTVQH trình dự án luật ra QH; 12. QH thảo luận và cho ý kiến về dự án luật (nếu là đạo luật lớn thì QH có thể cho lấy ý kiến nhân dân); 13. Sau khi QH thảo luận, UBTVQH tiếp thu ý kiến của các đại biểu QH; 14. UBTVQH trình lại cho QH; 15. QH thông qua tại kỳ họp (thông qua theo nguyên tắc: Từng điều một, một vài điều, một vấn đề và cuối cùng là thông qua toàn bộ); 16. Sau khi đại biểu bấm nút thì QH ban hành nghị quyết thi hành bộ luật; 17. Chủ tịch nước công bố BLHS 2015. So sánh với luật hiện hành thì BLHS mới đồ sộ, chi tiết hơn rất nhiều. Nhưng càng chi tiết thì càng cần nhiều thời gian để rà soát, đối chiếu. Bởi đó không phải là tập hợp từng điều luật độc lập, riêng rẽ, mà chúng có liên hệ chặt chẽ, logic với nhau. Nhìn vào quy trình nêu trên, có thể thấy trách nhiệm của các chủ thể liên quan.
Có hay không sự bất bình đẳng giữa DN nhà nước và DNTN khi BLHS 2015 có hiệu lực
Từ trước đến nay, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân luôn có sự khoảng cách nhất định. Đặc biệt là khoảng cách về các thủ tục hành chính, và những hoạt động liên quan đến các cơ quan nhà nước. DN nhà nước luôn được ưu tiên, đó được xem như là một "luật bất thành văn" từ trước tói nay. Đến khi BLHS 2015 chính thức được ban hành, trong đó có điểm nổi bật là pháp nhân cũng là chủ thể của tội phạm hình sự. Cụ thể những hành vi được cho là phạm tội của pháp nhân được quy định ở Điều 76 BLHS. Tuy nhiên, điểm đổi mới này của BLHS đặt ra cho ta nhiều vấn đề phát sinh. Trong đó sự công bằng giữa DN nhà nước và DN tư nhân được đẩy lên nội trội Liệu có sự công bằng hay không? Việc xử lý hình sự Pháp nhân thương mại sẽ thu hẹp hay giãn rộng khoảng cách phân biệt đối xử giữa Doanh nghiệp nhà nước và DN tư nhân.? Pháp luật quy định mọi doanh nghiệp đều bị xử lý hình sự nếu vi phạm như vậy DN nhà nước vi phạm cũng bị xử lý như DN tư nhân. Hình phạt có thể là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn tức là đóng cửa nhà máy xí nghiệp. Tuy nhiên việc xử lý hình sự đối với doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng phát hiện ra sai phạm. Mà điều này thì lại phụ thuộc vào năng lực thanh tra kiểm tra, đánh giá tính toán mức độ thiệt hại được thực hiện bởi các ban ngành nhà nước, và phụ thuộc vào kết quả giám định được thực hiện bởi cơ quan nhà nước. Như vậy liệu cơ quan nhà nước có nghiêm minh xử lý hình sự doanh nghiệp nhà nước công bằng bình đẳng như DN tư nhân không? Hay là quy định xử lý hình sự đối với doanh nghiệp sẽ lại là nhân tố làm giãn rộng thêm khoảng cách phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa DNNN và DN tư nhân? Giống như những bất bình đẳng trong các chính sách về ưu đãi tiếp cận nguồn vốn vay, ưu đãi về đất đai và các cơ chế chính sách như lâu nay? Có thể dự liệu đánh giá được phần nào nếu như có số liệu tổng hợp về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm của DNNN và DN tư nhân trong chục năm qua. Xem việc xử phạt vi phạm hành chính đối với DNNN và DN tư nhân có công bằng bình đẳng phân biệt đối xử không, để từ đó có thông tin để tham khảo đánh giá về việc xử lý hình sự doanh nghiệp. Và một điểm đáng chú ý nữa là Doanh nghiệp lớn hay nhỏ có nguy cơ phạm tội hình sự cao? Liệu có sự bất bình đảng giữa DN nhỏ và DN lớn? Từ ngày 1/7/2016 tới Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực quy định xử lý hình sự đối với Pháp nhân thương mại phạm tội. Xem xét những tội danh mà pháp nhân thương mại có thể phạm phải tại điều 76 thì thấy các doanh nghiệp lớn có nguy cơ bị xử lý hình sự cao hơn doanh nghiệp nhỏ. Lý do bởi vì các tội danh này đều dựa trên cơ sở mức độ định lượng tổn hại vật chất gây ra cho xã hội để làm căn cứ để định tội và định khung hình phạt. Do vậy những doanh nghiệp lớn có hoạt động sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn nếu có sai phạm sẽ dễ dàng gây ra mức độ thiệt hại đủ lớn để bị xử lý hình sự. Cho nên những doanh nghiệp lớn có nguy cơ bị xử lý hình sự cao hơn doanh nghiệp nhỏ trên mọi lĩnh vực ngành nghề. Dưới đây là những tội danh mà các doanh nghiệp có thể phạm phải. Luật đặt ra là như vậy, nhưng áp dụng thế nào là một chuyện khác. Hãy xem sau khi BLHS 2015 có hiệu lực, thì việc xử lý hình sự đối với các doanh nghiệp sẽ như thế nào?
Re:Bộ luật hình sự 2015: Tất tần tật các điểm mới
Chào các bạn, mình đã cập nhật xong 380 điểm mới của Bộ luật hình sự 2015. Để xem chi tiết, các bạn tải tại file đính kèm.
Hành vi đánh bạc qua mạng bị xét vào khung nào?
Hành vi đánh bạc qua mạng - Ảnh minh họa Đánh bạc là một tội phạm khó xác định về hành vi phạm tội, bởi lẽ có rất nhiều hình thức đánh bạc khác nhau. Việc áp dụng các phương tiện điện tử, kỹ thuật để thực hiện hành vi đánh bạc đã không còn xa lạ, nhưng thực tế vẫn còn nhiều thắc mắc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Đánh bạc như thế nào mới bị truy cứu? Mỗi tội phạm đều có dấu hiệu cấu thành nhất định và được pháp luật điều chỉnh. Tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được quy định như sau: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Như vậy, để hành vi đánh bạc thuộc mộ trong những trường hợp sau sẽ cấu thành tội này: (1) Đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000. (2) Đánh bạc được thua bằng hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc. (3) Đánh bạc được thua bằng hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 3 trường hợp sẽ cấu thành tội phạm cơ bản của tội Đánh bạc, kể cả đối với hình thức đánh bạc qua mạng. Đánh bạc qua internet và khung tăng nặng Các tình tiết ở khung tăng nặng (phạt tù từ 3 đến 7 năm) tại Khoản 2 Điều 321 bao gồm: - Có tính chất chuyên nghiệp; - Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên. - Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội. - Tái phạm nguy hiểm. Có hai nhầm lần phổ biến về khung tăng nặng của tội này: 1. Đánh bạc qua mạng là đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp Về vấn đề này, Điểm d Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP có hướng dẫn cụ thể như sau: “Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.” Văn bản này hướng dẫn Bộ luật hình sự 1999, tuy bộ luật đã được thay thế nhưng văn bản này vẫn là cơ sở để các Tòa án áp dụng tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”. Như vậy để được xem là “đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp” theo BLHS 2015 thì người phạm tội phải đánh bạc từ 5 lần trở lên mà giá trị hiện vật mỗi lần bằng mức tối thiểu để truy cứu TNHS, tức 5 triệu đồng và dùng tiền kiếm được từ đánh bạc làm nguồn sống chính. 2. Chỉ cần đánh bạc qua internet là sẽ bị áp dụng mức tăng nặng Để áp dụng khung tăng nặng với một hành vi, trước hết hành vi đó phải thỏa mãn dấu hiệu phạm tội của tội phạm, tức phải thuộc 3 trường hợp cấu thành tội này thì hành vi đánh bạc qua mạng mới bị xét vào khung tăng nặng Có nghĩa: - Việc đánh bạc qua mạng ít nhất phải thỏa mãn tình tiết được thua bằng hiện vật giá trị từ 5 triệu đồng trở lên. - Đã bị xử lý hành chính hoặc bị kết án hình sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc mà chưa được xóa án tích đã tái phạm. Đồng thời, Công văn 196/TANDTC-PC hướng dẫn: - Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc). - Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa...) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội”.
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn HOÀNG QUẢNG LỰC (Phó Chánh án TAND tỉnh Quảng Bình) - Điều 54 của BLHS năm 2015 quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong thực tiễn áp dụng quy định này còn có những cách hiểu khác nhau. Bài viết bàn về vướng mắc này để áp dụng điều luật cho phù hợp. 1.Quy định của pháp luật Điều 54 của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng quy định như sau: 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Hiện nay việc áp dụng điều luật này để xét xử bị cáo trong trường hợp bị cáo phạm vào điều khoản có khung hình phạt quy định là chỉ có loại hình phạt tù có thời hạn, hoặc có các loại hình phạt gồm tù có thời hạn, tù chung thân, hoặc có các loại hình phạt gồm cả tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và điều khoản liền kề nhẹ hơn có khung hình phạt quy định cả loại hình phạt tù có thời hạn và loại hình phạt khác là cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền hoặc đồng thời cả hai loại hình phạt này, thì Tòa án có được phép áp dụng loại hình phạt tiền hoặc loại hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo hay không đang là vấn đề có các quan điểm khác nhau. Ví dụ Điều 321 BLHS về tội đánh bạc quy định: 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Vậy khi bị cáo phạm tội thuộc khoản 2 Điều 321 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51BLHS, thì Tòa án có được áp dụng loại hình phạt tiền hay loại hình phạt cải tạo không giam giữ để xét xử đối với bị cáo không, hay chỉ được áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm ở khung hình phạt quy định tại khoảng 1 Điều 321 BLHS. 2.Quan điểm khác nhau Vấn đề này hiện có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất của số đông cho rằng Điều 54 BLHS quy định như vậy có nghĩa là khi bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với bị cáo. Cụ thể nếu bị cáo phạm tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS, thì trong trường hợp bị cáo đủ điều kiện để được áp dụng Điều 54 BLHS, Tòa án được quyền áp dụng loại hình phạt tiền hoặc loại hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo. Quan điểm thứ hai cho rằng Điều 54 BLHS không có câu chữ nào nói rằng khi bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với bị cáo. Điều luật này chỉ cho phép Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, hoặc không bắt buộc phải trong khung khung hình phạt liền kề nhẹ hơn trong trường hợp bị cáo phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Hai điều này là hoàn toàn khác nhau. Khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo trong ví dụ này là khung phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Do đó một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt này chỉ có thể là một hình phạt tù ở mức phạt tù từ 3 tháng đến dưới 3 năm, không thể là một hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc một hình phạt tiền. Sở dĩ chúng ta buộc phải hiểu như vậy là vì theo quan điểm của Nhà làm luật chỉ có thể đặt ra sự so sánh sự cao thấp trong cùng loại hình phạt, không thể đặt ra sự so sánh cao thấp giữa các loại hình phạt khác nhau, cụ thể không thể cho rằng một hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc một hình phạt tiền nào đó là thấp hơn hay cao hơn một hình phạt tù có thời hạn nào đó. Quan điểm này được thể hiện rất rõ qua việc trình bày ở khoản 3 Điều 54 BLHS. Đó là nếu có thể đặt ra sự so sánh cao thấp giữa các loại hình phạt khác nhau thì khoản 3 Điều 54 BLHS chỉ cần trình bày như sau là đã đầy đủ ý: “3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”; không cần phải đưa thêm cả cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”. Việc đưa thêm cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn” vào khoản 3 Điều 54 BLHS là bởi quan điểm của Nhà làm luật là một hình phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ cụ thể nào đó không được coi là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn cụ thể nào đó. Còn nếu coi một hình phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ cụ thể nào đó luôn là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn thì cụm từ “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”đã bao hàm trong đó các loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nên việc viết thêm cụm từ “hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là thừa”. Nhưng việc trình bày ở khoản 3 Điều 54 BLHS là có dụng ý rõ ràng của Nhà làm luật, chứ không phải là sự sơ suất dẫn đến trình bày thừa. Như vậy việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn so với loại hình phạt quy định ở khung hình phạt mà bị cáo phạm phải không được áp dụng đối với trường hợp bị cáo phạm vào tội mà điều luật quy định có nhiều khung hình phạt và khung hình phạt mà bị cáo phạm phải không phải là khung hình phạt nhẹ nhất. Tác giả đồng tình quan điểm này. Trong những năm gần đây, các loại tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc đang diễn ra khá phức tạp ở nhiều địa phương trên toàn quốc, trong đó việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội ngày càng phổ biến, tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá ngày càng tăng. Tuy vậy ở một số địa phương hầu hết các trường hợp phạm tội theo khoản 2 Điều 321 BLHS đều được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ, với lý do bị cáo có đủ điều kiện để được áp dụng Điều 54 BLHS, mà khoản 1 Điều 321 BLHS khung hình phạt có quy định loại hình phạt cải tạo không giam giữ, nên việc cho bị cáo được hưởng loại hình phạt này là hoàn toàn đúng pháp luật. Thực trạng trên làm cho việc xử lý loại tội phạm này vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Xin dẫn chứng vụ án điển hình sau: Khoảng đầu năm 2020, Trần thế H và vợ là Võ Thị Kiều Tr với sự giúp sức của Nguyễn Thị Ng, Trịnh Thị Thu H làm chủ số lô, số đề thỏa thuận với một số người quen biết khác về việc đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề dựa trên kết quả mở thưởng của các Công ty Xổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và Miền Bắc. Các thư ký đề hàng ngày trực tiếp bán số lô, số đề cho các con bạc là khách qua đường, đến cuối ngày tổng hợp thành bảng đề và chuyển lại cho Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H thông qua ứng dụng mạng xã hội zalo, tin nhắn điện thoại và tài khoản facebook. Việc thanh toán thắng thua căn cứ kết quả mở thưởng xổ số trong ngày bán. Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H quy ước với các thư ký và những người quen biết đánh bạc như sau: Dự đoán số theo thống nhất từ trước và đặt cược các con số theo kết quả xổ số kiến thiết mở thưởng của các Công ty Sổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và Miền Bắc. Nếu dự đoán trùng với kết quả thì thắng, dự đoán không trùng thì thua. Việc thắng thua được thanh toán bằng tiền mặt. Các bảng đề chuyển cho Nguyễn Thị Ng, Trần Thế H, Trịnh Thị Thu H vào thời gian trước 17 giờ 10 phút đối với Xổ số kiến thiết Miền Trung – Tây nguyên và trước 18 giờ 10 phút đối với Xổ số kiến thiết Miền Bắc. Khi nhận được bảng đề, bên nhận kiểm tra lại, nếu không chấp nhận số đánh thì liên lạc lại. Với cách thức như trên, trong khoảng thời gian từ ngày 12/3/2020 đến ngày 14/3/2020, Trần Thế H, Võ Thị Kiều Tr, Trịnh Thị Thu H, Trần thị H và Lê Anh S đã nhiều lần đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc của mỗi người như sau: Trần Thế H 415. 574.000 đồng, Võ Thị Kiều Tr 415.574.000 đồng, Trịnh Thị Thu H 228.748.000 đồng, Trần thị H 120.878.000 đồng và Lê Anh S 132.983.000 đồng. Năm bị cáo trên bị truy tố về tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS. Mười ba bị cáo còn lại cũng đều thực hiện việc đánh bạc nhiều lần, với tổng số tiền đánh bạc của mỗi người dưới 50 triệu đồng, bị Viện kiểm sát truy tố theo khoản 1 Điều 321 BLHS về tội đánh bạc. Tòa án xét xử vụ án đã áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, mức án từ 25 đến 36 tháng cho tất cả 18 bị cáo của vụ án, trong đó có 5 bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 321 BLHS, 13 bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 321 BLHS và trong số 18 bị cáo này có một số bị cáo đã từng bị phạt tù, bị xử phạt hành chính về các hành vi đánh bạc, trộm cắp tài sản. 3.Kiến nghị Từ thực tế của việc áp dụng rất có vấn đề về Điều 54 BLHS như trên, tác giả xin có mấy kiến nghị sau: Thứ nhất, ngày 4/8/2000 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có ban hành Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999. Tại mục 10 về áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999, Nghị quyết đã hướng dẫn như sau: “ Quy định "Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật" được áp dụng trong trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu các khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2, 3... và từ nhẹ nhất đến nặng nhất, thì theo quy định này khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, Toà án chỉ có thể quy định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2; Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 2, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3... Ví dụ: Một người phạm tội trộm cắp tài sản và có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, việc áp dụng quy định trên đây của Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: - Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 2 năm tù, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 1; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 6 tháng đến dưới 2 năm hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm. ...”. Theo tác giả nội dung hướng dẫn này là trái với Điều 47 BLHS năm 1999. Lý do như đã phân tích ở trước, đó là theo tinh thần của Điều 47 BLHS năm 1999 (cũng như tinh thần của Điều 54 BLHS hiện hành), chỉ có thể coi các loại hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền là các loại hình phạt nhẹ hơn loại hình phạt tù có thời hạn mà không thể coi một hình phạt tiền, hoặc một hình phạt cải tạo không giam giữ là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn. Nếu cho rằng một hình phạt tiền hoặc một hình phạt cải tạo không giam giữ là thấp hơn một hình phạt tù có thời hạn thì giải thích như thế nào quy định tại Điều 196 BLHS về tội đầu cơ, theo đó khoản 3 của Điều luật này có quy định mức phạt (hình phạt chính) từ một tỉ rưỡi đồng đến 5 tỉ đồng, trong khi đó khoản 1 của Điều luật lại có quy định mức phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm? Do đó việc hướng dẫn cho người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 có thể được hưởng loại hình phạt cải tạo không giam giữ là không thỏa đáng. Mặc dù Nghị quyết này đã hết hiệu lực pháp luật, nhưng tinh thần này của Nghị quyết này đến nay nhìn chung vẫn được các Tòa án áp dụng. Để khắc phục tình trạng này thiết nghĩ Hội đồng Thẩm phán TANDTC nên ban hành Nghị quyết mới hướng dẫn lại vấn đề này theo đúng tinh thần của BLHS. Thứ hai, BLHS có một số điều luật quy định về tội phạm mà khi người phạm tội phạm vào các điều luật này, thì người phạm tội dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, Tòa án cũng không thể áp dụng Điều 54 BLHS để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo được. Ví dụ Điều 336 của BLHS về tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật quy định như sau: “1. Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên; b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Với quy định như vậy trong trường hợp bị cáo phạm vào khoản 2 của Điều luật này thì Tòa án không thể áp dụng được Điều 54 BLHS để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo được, dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất hai tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Lý do của việc này như đã phân tích ở phần trước. Do đó về lâu dài BLHS cần phải được sửa đổi để khắc phục hạn chế này. Ví dụ như điều luật này cần sửa đổi như sau: “1. Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 2 năm đến 3 năm, hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên; b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Với sửa đổi như vậy sẽ khắc phục được hạn chế trên./. Theo Tạp chí tòa án
Phân tích Cấu thành tội phạm của tội Cưỡng đoạt tài sản
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Căn cứ pháp lý của tội cưỡng đoạt tài sản Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2015") như sau: 1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: (a) Có tổ chức; (b) Có tính chất chuyên nghiệp; (c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; (d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; (đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; (b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Các yếu tố cấu thành của tội cưỡng đoạt tài sản (i) Mặt khách quan của tội phạm: Thể hiện ở hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. - Về hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực là hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian. Cho nên, người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. - Về hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (như đe dọa hủy hoại tài sản, loan tin về đời tư, tố giác hành vi phạm pháp…của người bị đe dọa). - Lưu ý, tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi phân tích ở trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không. (ii) Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. (iii) Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (phạm tội thuộc các khoản 2,3,4) và có năng lực trách nhiệm hình sự. (iv) Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cùng lúc xâm hại đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ sở hữu. Trong đó, việc xâm hại đến quan hệ nhân thân không phải mục đích của tội phạm mà chỉ đe dọa tinh thần làm cho người bị cưỡng đoạt phải giao tài sản. Trường hợp chuyển hóa tội danh Tội cưỡng đoạt tài sản có thể chuyển hóa thành tội cướp tài sản trong trường hợp: Người phạm tội không chỉ dừng lại ở hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản mà dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Luật sư Nguyễn Duy Hội - Trưởng Chi nhánh Hà Nội Công ty Luật TNHH Everest
Sản xuất, buôn bán nước rửa tay giả bị xử lý như thế nào?
Theo Vnexpress, ngày 09/02/2020, Công an tỉnh Thái Bình đang tạm giữ hàng nghìn chai nước rửa tay, tinh dầu của Công ty Thiên Y Việt mang nhãn hiệu Rencide III, Hand sanitizer không đảm bảo chất lượng, không có tác dụng kháng khuẩn để phục vụ điều tra hành vi sản xuất hàng giả. Vậy sản xuất, buôn bán hàng giả bị xử lý như thế nào? Sản xuất hàng giả là hành vi sản xuất ra các loại hàng hóa tiêu dùng không đảm bảo chất lượng, đúng kiểu dáng, nhãn hiệu và chất lượng đã đăng ký, hoặc nhái lại kiểu dáng của hãng nổi tiếng đã đăng ký bản quyền. Buôn bán hàng giả là hành vi mua hàng biết rõ là hàng giả với giá rất rẻ và dùng các thủ đoạn gian dối để bán cho người tiêu dùng với giá của hàng thật. Theo định nghĩa tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP thì hàng giả là: “Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký”. Hiện tại, việc xử lý cá nhân, pháp nhân sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại 02 văn bản pháp luật sau đây: *Thứ nhất, tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm. Trong đó, từ Điều 11 đến Điều 15 quy định mức phạt tiền từ 500.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với từng hành vi vi phạm. Đồng thời, Nghị định này còn có quy định về mức phạt tăng thêm trong từng trường hợp cụ thể. *Thứ hai, tại Bộ Luật hình sự 2015 - Điều 192 Bộ Luật hình sự 2015 về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và khoản 42 Điều 1 Bộ Luật hình sự sửa đổi 2017 quy định 03 khung hình phạt sau: Khung 1: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp quy định tại khoản 1. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp được quy định tại khoản 2. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3. Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại khoản 5 Điều 192 Bộ luật hình sự 2015 và khoản 42 Điều 1 Bộ luật hình sự sửa đổi 2017 Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Như vậy có thể thấy, pháp luật hiện tại đã có quy định khá chi tiết về cách xử phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ảnh hưởng đến quyền lời người tiêu dùng. Tùy từng hành vi, số lượng hàng giả, tính chất của hàng giả và mức độ vi phạm của chủ thể mà sẽ có mức phạt tương ứng.
Mọi người giúp em giải quyết tình huống pháp luật này với: Tình huống như sau: Nguyễn Văn H ( 34 tuổi ) là chủ xe, thuê Lê Văn K (27 tuổi ) chở gạo cho mình. Khi xe đang lưu thông trên đường quốc lộ, H bảo K :" Trông chú mày có vẻ mệt, anh lái cho 1 đoạn " . K biết rõ H không có bằng lái xe nhưng biết lái xe. Vì nể chủ xe K đã giao lái cho H, chạy được một đoạn thì H tăng tốc, cho xe lấn sang trái để vượt lên xe phía trước thì va chạm vào xe của M đang lưu thông ngược chiều, làm anh M chết tại chỗ. Hỏi : (1) H đã có dấu hiệu phạm tội gì ? Thuộc hình phạt nào ? Tại sao ? (2) K có phạm tội không ? Nếu có thì K có dấu hiệu phạm tội gì ? Mọi Người Giúp Em Với ! Em cảm ơn trước nha Xử lý theo BLHS 2015 nha !
BLHS 2015 bổ sung mới và bãi bỏ tội danh nào?
Chào mọi người. Mong mọi người giúp mình câu hỏi này ạ: "So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã bổ sung mới và bãi bỏ những tội danh nào?" Mong mọi người giúp đỡ. Cảm ơn mọi người nhiều ạ!
Ông Nguyễn Hữu Linh sắp bị đưa ra xét xử
Ngày 22/5/2019, VKSND quận 4, TP. Hồ Chí Minh đã hoàn tất cáo trạng, chuyển hồ sơ sang toà án quận 4 để đưa ra xét xử ông Nguyễn Hữu Linh (61 tuổi) về hành vi "dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" (Điều 146 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)). Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Trước đó, theo thông tin các báo đã nêu, tối 1/4/2019 tại chung cư Galaxy 9, quận 4, ông Nguyễn Hữu Linh, nguyên Viện phó VKSND thành phố Đà Nẵng, đã có hành vi ôm ghì, hôn và được cho là có hành vi sờ mó bé gái 7 tuổi trong thang máy. Toàn bộ hành vi này đã bị camera ghi lại. Hành vi của ông Nguyễn Hữu Linh đã gây bức xúc dư luận trong một thời gian dài. Việc đưa ra xét xử vụ án khẳng định sự quyết tâm của cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh với tội phạm xâm hại tình dục đang diễn biến rất phức tạp hiện nay. Nguồn: VnExpess
Phân loại các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu theo Bộ luật hình sự 2015
Tội phạm xâm phạm sở hữu có thể được định nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ độ tuổi chịu trách nhệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọạ gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội xâm phạm sở hữu quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây: + Hành vi chiếm đoạt tài sản là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản “của mình”… + Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. + Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó. + Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư hỏng + Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể. =>Từ các đặc điểm của hành vi khách quan khác nhau như trên, có thể phân loại Tội xâm phạm sở hữu thành các loại: Nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt Gồm 8 tội danh: + Tội cướp tài sản (Điều 168); + Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); + Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); + Tội cướp giật tài sản (Điều 171); + Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); + Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); + Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). Nhóm tội không có tính chất chiếm đoạt Gồm 2 tội danh: + Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176); + Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) Nhóm tội không có tính vụ lợi, không chiếm đoạt Gồm 3 tội danh: + Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178); + Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179); + Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180). Kết luận: Việc hiểu và nhận thức đúng về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu và cách phân loại giúp cho việc xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm lẫn giữa các tội danh. Đặc biệt đối với các cơ quan có thẩm quyền trong điều tra chứng minh tội phạm được chính xác, bảo đảm xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.
Bình luận tội giết người theo BLHS năm 2015
1. Khái niệm Tội giết người Trên cơ sở quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015, chúng tôi rút ra khái niệm Tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện. Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của khái niệm này chính là khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. 2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào có thể so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Khi quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu. Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ xã hội. Nếu quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì những lý do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người luôn được đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế độ. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người mà trong các BLHS từ năm 1985 đến nay, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đều đã quy định Tội giết người. Điều này càng khẳng định, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thật sự thiêng liêng, cao quý, cần được bảo vệ một cách tuyệt đối. Bất cứ ai xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc. Tội giết người xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động - con người đang sống. Việc xác định đúng đối tượng tác động của Tội giết người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, vì vậy, hành vi đó không phạm tội giết người. Mặt khách quan Hành vi khách quan Hành vi khách quan của Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Hành vi khách quan của Tội giết người là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là hành vi đó phải gây ra hoặc có khả năng gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật. Những hành vi không gây ra và cũng không có khả năng gây ra cái chết cho người khác hoặc tuy có khả năng gây ra cái chết cho người khác, nhưng không trái pháp luật (như hành vi phòng vệ chính đáng, hành vi thi hành án tử hình...) thì đều không phải là hành vi khách quan của Tội giết người. Nghiên cứu hành vi khách quan của Tội giết người cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ là hành vi cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua các tiêu chí cơ bản sau đây: Thứ nhất, nếu nạn nhân bị chết do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì: Định Tội giết người khi người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi người phạm tội chỉ vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, trước đó người phạm tội không có bất kỳ hành vi cố ý nào xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân. Thứ hai, nếu nạn nhân bị chết không phải do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà do hành vi của người phạm tội cố ý gây ra, thì người thực hiện hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân chỉ có thể phạm tội giết người mà không phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hậu quả Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất - hậu quả chết người khác. Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật - giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có khả năng hồi phục. Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, căn cứ vào dấu hiệu pháp lý của hai tội phạm này chúng tôi thấy, Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khác nhau ở những điểm cơ bản sau đây: Một là, về khách thể của tội phạm, nếu khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người thì khách thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy cũng là quan hệ nhân thân, nhưng nội dung của nó lại là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ của con người; hai là, về lỗi của người phạm tội, nếu lỗi của người phạm tội giết người (phạm tội chưa đạt) chỉ là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (mong muốn nạn nhân chết), thì lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác lại có thể là: a) Lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (mong muốn hoặc bỏ mặc, chấp nhận gây tổn thương cơ thể cho nạn nhân) hoặc b) Lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (bỏ mặc, chấp nhận hậu quả nạn nhân chết nhưng hậu quả này đã không xảy ra). Sở dĩ trường hợp cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu nạn nhân không chết thì không định Tội giết người (chưa đạt) mà chỉ có thể định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, bởi vì trong trường hợp này, người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra; do đó, nếu nạn nhân không chết thì không thể buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người - điều mà họ không mong muốn và nó cũng không xảy ra trên thực tế. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác qua các tiêu chí cơ bản sau đây: 1) Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội giết người (phạm tội chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn hậu quả nạn nhân chết xảy ra. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội; 2) nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân mà chỉ là lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân hoặc lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm này). Mối quan hệ nhân quả Hành vi khách quan của Tội giết người được coi là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người khác nếu thoả mãn ba điều kiện: 1) Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; 2) Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác. Khả năng này chính là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Khả năng gây chết người của hành động là dùng dao sắc nhọn đâm vào ngực nạn nhân hay của không hành động là không cho trẻ sơ sinh ăn, uống...; 3) Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của Tội giết người hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Xác định đúng nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người khác không những giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vấn đề có hành vi xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác xảy ra hay không mà còn có thể kết luận ai là người đã thực hiện hành vi đó. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử Tội giết người trong những năm gần đây cho thấy, không ít trường hợp, do xác định không đúng mối quan hệ nhân quả nên đã xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Chúng tôi xin đưa ra 1 vụ án cụ thể: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 84 ngày 31/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh H đã tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người. Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/HS-TK ngày 31/3/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy phần tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người của Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo hướng kết án Bùi Văn H về Tội giết người. Bởi lẽ, Bùi Văn H là người tham gia thực hiện tội phạm một cách tích cực. Khi thấy anh T chạy từ trong nhà ra, H đã cầm côn đánh liên tiếp vào anh T làm anh T bị ngã, tạo điều kiện để Nh xông vào dùng dao đâm anh T. Trên người anh T không phải duy nhất chỉ có vết dao đâm của Nh mà có rất nhiều vết thương bầm tím do vật tày gây ra phù hợp với hung khí là côn do H sử dụng. Vì vậy, có đủ căn cứ để kết luận hậu quả anh T bị chết là do hành vi phạm tội của Nh, Lê Đình Th, Lê Đình H và Bùi Văn H gây ra (1). Chủ thể Chủ thể của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người phải đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, độ tuổi cũng là điều kiện của chủ thể của Tội giết người. Theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Quy định này cho thấy, một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thoả mãn hai dấu hiệu: Dấu hiệu y học, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh và dấu hiệu tâm lý, mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Người mắc bệnh trong trường hợp này: 1) Hoặc không còn năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội, không còn năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện đúng hay sai, được làm hay không được làm... Vì vậy, họ cũng không còn năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội; 2) hoặc tuy có năng lực nhận thức và năng lực đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm, nhưng do các xung động bệnh lý khiến họ không thể kiềm chế được hành vi của mình. Quy định trên cho thấy, người nào tuy mắc bệnh tâm thần, nhưng không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Đây thực chất là trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế - một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên (2). Quy định này dựa trên cơ sở nghiên cứu tâm sinh lý con người Việt Nam, truyền thống lập pháp và chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt chủ quan Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Theo quy định tại Điều 10 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết. Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết. Nghiên cứu lỗi của người phạm giết người giúp phân biệt Tội giết người với Tội vô ý làm chết người. Nếu lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý (với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết) thì lỗi của người phạm tội vô ý làm chết người chỉ là lỗi vô ý (vô ý với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết). Thực tiễn xét xử cho thấy, để định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua tiêu chí cơ bản sau đây: Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là cố ý thì định Tội giết người. Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn nạn nhân chết hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết. Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là vô ý thì có thể định tội vô ý làm chết người. Đây là trường hợp người phạm tội không những không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, cũng không có thái độ “thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà còn không thấy trước được hậu quả đó mà đáng lẽ ra phải thấy hoặc có thể thấy hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra”. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội danh, xác định đúng hình thức lỗi còn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Bởi lẽ, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý gián tiếp, sự quan tâm của người phạm tội không hướng vào hậu quả chết người khác mà hướng vào mục đích khác. Do đó, tất cả những gì xảy ra đối với nạn nhân do hành vi phạm tội đưa lại đều có thể không có tác động gì đến người phạm tội. Ngược lại, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội không những hướng tất cả sự chú ý vào việc gây ra hậu quả chết người khác mà còn cố gắng và quyết tâm gây ra hậu quả đó. Họ sẽ tiếp tục hành động, thậm chí còn hành động cương quyết và mạnh mẽ hơn chừng nào còn có biểu hiện là nạn nhân chưa chết, chưa bị tổn thương cơ thể hoặc chưa thể chết, chưa thể bị tổn thương cơ thể được. Cho nên, nếu các tình tiết khác tương đương, người phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp. Khác dấu hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của Tội giết người, động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, ở một số cấu thành tội phạm mà mặt khách quan cũng đòi hỏi dấu hiệu hành vi gây ra cái chết cho người khác, nhưng dấu hiệu động cơ hoặc mục đích phạm tội lại được quy định là dấu hiệu bắt buộc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác định đúng khung hình phạt và phân biệt được Tội giết người với một số tội phạm khác cũng có hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân. Cụ thể là: 1) Người nào cố ý gây ra cái chết cho người khác (thường là cán bộ, công chức hoặc công dân đang giữ những trọng trách nhất định) nhằm chống chính quyền nhân dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113); không nhằm chống chính quyền nhân dân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người. 2) Người nào trong khi thi hành công vụ, xuất phát từ động cơ thi hành công vụ mà cố ý gây ra cái chết cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127); nếu do hống hách, coi thường tính mạng người khác hoặc do tư thù cá nhân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người. 3) Người nào cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); nếu không thỏa mãn các điều kiện trên thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. 4) Người nào vì muốn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà cố ý gây ra cái chết cho người đang xâm phạm những lợi ích nói trên một cách rõ ràng quá mức cần thiết thì không phạm tội giết người mà phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126). (Còn nữa) Nguồn: Kiểm sát online
Những điều cần biết khi người nước ngoài phạm tội hình sự tại Việt Nam
Đầu tiên, xác định định đối tượng nước ngoài có nằm trong trường hợp VN phải tiến hành xử lý TNHS - Trường hợp 1: Khoản 2, Điều 5 BLHS sửa đổi 2017. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. - Việc người nước ngoài được thuộc trường hợp ưu đãi miễn trừ ngoại giao thì không được bắt giữ hoặc có hành vi xâm phạm thân thể họ Trường hợp 2: Khoản 2 Điều 6 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Thứ hai, đưa ra hướng xử lý đối với hành vi phạm tội của người nước ngoài Đối với TH1: >>> Thông thường, thì người được hưởng đặc quyền ngoại giao là những người đứng đầu cơ quan nhà nước, những đại diện ngoại giao, các thành viên của đoàn ngoại giao,… do không quy định cụ thể các trường hợp được hưởng nên việc áp dụng với các đối tượng là nước ngoài khá rộng. Vì vậy cần thiết để đưa ra một nội dung cụ thể cho việc này Đối với TH2: >>> Theo quy định tại khoản này thì người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu TNHS thuộc vào các trường hợp ĐƯQT mà nước CHXHCNVN ký kết với nước tham gia hoặc theo tập quán quốc tế thì người đó vẫn phải chịu TNHS . Có 2 khả năng xảy ra với trường hợp này: 1. Người nước ngoài đó sẽ được dẫn độ về nước sở tại nếu được VN chấp nhận 2. VN từ chối việc dẫn độ để trực tiếp xét xử hành vi phạm tội của công dân nước tham gia ký kết ĐƯQT
Mức xử lý nào cho cô giáo xúc phạm học sinh là "Lợn"?
"Mày nói đứa nào lừa đảo? Mày bảo tao lừa đảo à? Mày tự bước vào đây chứ tao lừa đảo mày à?...Tao nói cho mày biết ở ngoài kia, 1 hay 10 trung tâm cũng không thể biến mày từ con lợn thành con người được đâu!..." Chợt rùng mình khi mới vài giờ trước đọc tin cô giáo vì 100k mà chửi mắng học viên một cách vô cùng phản cảm. Và sau khi bị trở thành tâm điểm, nhân vật chính là cô giáo cũng đã lên tiếng, tuy nhiên không phải biện hộ, sửa sai mà i như rằng hành vi của mình là hoàn toàn đúng, ngoài ra còn nhấn mạnh những lời lẽ xưng hô vô cùng chợ búa mà trong ngành gọi là “thợ dạy”. Không chấp nhận sự xuống cấp đạo đức của người giáo viên có thể như vậy. Đầu năm qua đã quá đỗi kinh hoàng khi hàng loạt các vấn đề về tư cách đạo đức nghề giáo trở thành đề tài nóng. Theo quan điểm cá nhân và những quy định pháp luật hiện hành về hướng xử lý đối với hành vi trên như sau: Về xử phạt hành chính: Luật giáo dục quy định tại Điều 75 về Các hành vi nhà giáo không được làm: - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học; - Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học; - Xuyên tạc nội dung giáo dục; - Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền Nghị định 138/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, ngược đãi, xâm phạm thân thể người học. Hình thức xử phạt bổ sung: Đình chỉ giảng dạy từ 1 tháng đến 6 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản này >>> Như vậy, với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, ngược đãi, xâm phạm thân thể người học sẽ bị phạt 5 triệu đến 10 triệu đồng. Giáo viên có hành vi này còn bị đình chỉ giảng dạy từ 1 tháng đến nửa năm. Ngoài ra, trong câu chuyện trên, việc cô giáo ép thu 100k/học sinh/hành vi phạm lỗi cũng là một hành vi đáng để xử phạt hành chính Điều 24 Nghị định này xử lý vi phạm quy định về học phí, lệ phí và các khoản thu khác “.. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức thu các khoản trái quy định…” Xử lý hình sự: Tùy theo mức độ và hậu quả của hành vi được xác định, có thể thấy việc sử dụng ngôn từ thiếu chuẩn mực ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của học sinh, luật của nhà nước cũng trở nên bất thành văn. Hành vi của cô giáo đó có thể quy kết vào tội phạm theo điều 155 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. >>> Như vậy, ngoài việc phải chịu những hình thức xử lý liên quan đến hành chính thiết nghĩ một khi đã bộc lộ những hạn chế từ việc đối xử thiếu văn hóa với học viên thì cô giáo này đáng bị đình chỉ hoạt động giảng dạy. Ngoài ra, việc truy cứu TNHS cần được đưa vào để cân nhắc xứng đáng với hành vi trên, xử lý nghiêm minh mới phòng mức độ lây truyền về sau, đừng để “con sâu làm rầu nổi canh”. Bạn có mức đề xuất nào đối với hành vi này?
Thực tế hiện nay mình thấy việc các cá nhân hành nghề xem bói, xóc thẻ,… ngày một phổ biến. Người dân cũng nỗi lo xa nên thường tin vào những phù phép sau đó truyền tai chỗ này, chỗ kia, những điều này vô tình tiếp tay cho những đối tượng hành nghề. Dưới đây là nội dung pháp luật đã quy định để kiểm soát và xử lý như sau: + Xử lý hành chính: Khoản 2 Điều 15 Nghị định 158/2013/NĐ-CP quy định vi phạm về nếp sống văn hóa như sau: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Lợi dụng hoạt động lên đồng, xem bói, gọi hồn, xin xăm, xóc thẻ, yểm bùa, phù chú, truyền bá sấm trạng và các hình thức tương tự khác để trục lợi - Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi + Xử lý Hình sự: Điều 320 Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về “Tội hành nghề mê tín, dị đoan” 1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: - Làm chết người; - Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên; - Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Như vậy, với các hành vi trên mà đã bị xử lý hành chính hoặc bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội hành nghề mê tín, dị đoan. Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, những quy định của pháp luật đang dần trở nên “bất thành văn” khi chúng ta có thể thấy sự ảnh hưởng và sự nhận rộng về vấn đề này ngày một gia tăng. Chế tài chưa đủ sức răn đe chăng?
Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyên tắc suy đoán vô tội. >>> Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy suy đoán vô tội + Quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về suy đoán vô tội: - Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. + Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc: Thứ nhất, trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội phải được thu thập cụ thể, chính xác. Thứ hai, tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó >>> Thực tiễn hiện nay cho thấy một số hành vi đưa tin không trung thực, chính xác, khách quan, quy kết tội danh, luận tội... khi chưa có bản án kết tội của Tòa án như: + Sử dụng ngôn từ, hình ảnh miệt thị đối với người bị quy kết có tội và gia đình của họ + Suy diễn diễn biến câu chuyện từ đó biến tấu nhằm thu hút người xem + “đào bới” thông tin trong quá khứ của nghi phạm, “moi móc” thông tin về người thân theo hướng bất lợi cho nghi phạm >>> Với những hành vi trên, chủ thể có thể bị áp chế tài theo quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%75. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên76; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 156. Tội vu khống 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đ) Đối với người đang thi hành công vụ; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%77; h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Vì động cơ đê hèn; b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên78; c) Làm nạn nhân tự sát. Với những nôi dung trên đang giác ngộ chúng ta hãy hành xử một cách đúng đắn, những điều ta nghe và thấy chưa chắc là đúng sự thật, đừng vội "kết luận" bất cứ điều gì.
Điều kiện hoạt động hợp pháp của tổ chức tôn giáo
Thời gian rồi sự xuất hiện của Hội thánh đức chúa trời làm khuynh đảo tâm lý cộng đồng bởi sức ảnh hưởng và những hậu quả đang tiềm tàng, đến đây nhìn nhận lại những vấn đề pháp lý mà pháp luật đã điều chỉnh về quyền được gọi là “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” * Điều 18 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định về điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: - Có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; - Có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; - Tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc; - Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; - Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở; - Nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Luật này. * Về điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo Tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: - Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; - Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; - Có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; - Có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo. * Chế tài xử lý vi phạm - Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 64). Được cụ thể như sau: + Phạt tiền đến 30.000.000 đồng nếu vi phạm quy định về lĩnh vực tôn giáo theo quy định tại điều 24 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 + BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về các tội phạm trong tín ngưỡng, tôn giáo như sau: - Hành vi gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị - xã hội sẽ bị quy vào Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116) - Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác có thể bị phạt tù đến 3 năm (Điều 164) - Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nếu người nào lợi dụng các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. (Điều 331) * Xử lý vi phạm với cán bộ, công chức Điều 65 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định: Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm sau đây: - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; - Thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; - Vi phạm quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Trên đây là những nội dung cần thiết liên quan đến việc hoạt động của các cơ sở tôn giáo, qua đó xét lại thực tiễn đang có vấn đề gì mà những tổ chức tự xưng là tôn giáo vẫn ngang nhiên tồn tại mặc dù không được phép như vậy?
TANTC hướng dẫn áp dụng quy định hiệu lực của BLHS 2015
TANDTC vừa ban hành Công văn 04/TANDTC-PC về việc áp dụng BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội, cụ thể: 1. Tất cả điều khoản của BLHS 2015 áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 2. Những điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ tội phạm, hình phạt, tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ; miễn giảm TNHS...và những quy định có lợi cho người phạm tội (NPT) áp dụng với cả hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 mà sau đó mới bị phát hiện, hoặc đang bị truy tố, xét xử... 3. Các tội phạm mới đựơc quy định tại BLHS 2015..và những quy định không có lợi cho người phạm tội nếu phát hiện có hành vi phạm tội như trên xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018, mà sau đó mới bị phát hiện, truy tố, xét xử... thì không áp dụng quy định của BLHS 2015 mà áp dụng quy định những văn bản có hiệu lực từ trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 4. Các tội đựơc tách ra từ tội ghép, nếu có lợi cho NPT thì áp dụng với cả những hành vi xảy ra trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018, nếu bất lợi thì áp dụng quy định những văn bản có hiệu lực từ trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018. 5. Các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, giá trị lớn, giá trị rất lớn...của BLHS 1999 nếu đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 thì vẫn áp dụng quy định của BLHS 1999 để khởi tố , điều tra, truy tố, xét xử. 6. Hành vi đã có bản án, quyết định của Tòa đã có hiệu lực trước 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2018 thì không căn cứ vào những quy định của BLHS 2015 có nội dung khác với điều luật đã áp dụng tuyên án để giám đốc thẩm
Danh sách 93 Điều luật bị sửa đổi của BLHS 2015
Bộ Tư Pháp vừa trình Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các điều của Bộ Luật Hình sự 2015, trong đó sửa đổi 93 điều. Có 48 điều bị sửa đổi về nội dung và 45 điều chỉ sửa lỗi thuần túy về kỹ thuật. Mình xin gửi đến bản phân tích lỗi để mọi người tham gia góp ý kiến, với hy vọng sẽ không phải ban hành văn bản sửa thêm lần nữa: 1. Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự - Bỏ viện dẫn Điều 285 vì đây là tội phạm nghiêm trọng. - Sửa đổi Khoản 2_bỏ phần: về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. 2. Điều 14. Chuẩn bị phạm tội Thêm Điểm c Khoản 2: Điều 207 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả). Lý do: Để bảo đảm thống nhất giữa Điều 14 và Điều 207. 3. Điều 19. Không tố giác tội phạm Sửa đổi Khoản 1: Người nào biết rõ tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 14 đang được chuẩn bị hoặc tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 390 Điều 389 của Bộ luật này. Lý do: Để bảo đảm phù hợp với khoản 2 Điều 14. 4. Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng Sửa đổi Khoản 3: 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc (thêm) chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Lý do: Để bảo đảm linh hoạt trong áp dụng và kế thừa quy định của BLHS năm 1999 5. Điều 71. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án 1. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án. 2. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm; 3. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. Lý do: - Ý kiến 1: Để bảo phù hợp với Điều 61 về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án - Ý kiến 2: Đây là lỗi từ BLHS năm 1999 và thực tiễn không thấy vướng mắc gì, vì vậy không nên sửa. 6. Điều 81. Cấm huy động vốn Sửa kỹ thuật: Thay cụm từ “cấm vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoăc quỹ đầu tư” bằng cụm từ “các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc các quỹ đầu tư” tại điểm a khoản 2. Lý do: Phù hợp với Điều 4 Luật tổ chức tín dụng 7. Điều 85. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại Bỏ Khoản 1 Điểm d: d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; 8. Điều 86. Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội Sửa đổi Điểm b, c Khoản 1: b) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn cùng lĩnh vực thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với lĩnh vực đó; c) Nếu hình phạt đã tuyên cùng là đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc cùng là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với từng lĩnh vực cụ thể thì không tổng hợp;
Sửa đổi BLHS 2015 sao giống sửa đường quá vậy?
Theo báo điện tử ĐCSVN Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 (Luật sửa đổi) đã họp và thống nhất đề xuất sửa đổi, bổ sung 119 điều của BLHS 2015. Theo kế hoạch, dự án này sẽ được Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội thẩm tra vào phiên họp đầu tháng 9 và được Quốc hội khoá XIV cho ý kiến, thông qua tại kỳ họp thứ hai diễn ra vào tháng 10. Phương án khắc phục lỗi sai Những sai sót tại BLHS 2015 đã quá rõ ràng và đó là lý do tại sao phải lùi ngày có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên đó là chuyện đã rồi, vấn đề quan trọng hơn là chọn cách nào để khắc phục sai sót. Có 2 phương án 1. Ban hành BLHS mới 2. Ban hành Luật sửa đổi BLHS Như chúng ta đã biết phương án 2 là phương án được lựa chọn. Như vậy một câu hỏi đặt ra là liệu phương án này có phải là phương án tốt nhất? chúng ta sẽ cùng phân tích. - Quy trình để ban hành một Luật sửa đổi BLHS cũng không khác gì quy trình ban hành BLHS mới vì Luật sửa đổi cũng là Luật và cũng phải được soạn thảo, thẩm tra và trình Quốc hội thông qua. Như vậy xét về mặt đầu tư thời gian, công sức và chi phí, phương án 2 không có gì nổi trội hơn phương án 1. - Sau khi thực hiện xong phương án 2, chúng ta có thêm một Luật nữa trong hệ thống các VBQPPL của Việt Nam đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015. Việt Nam đã nổi tiếng là nơi có năng suất sản xuất pháp luật thuộc hàng top của thế giới, nay lại có thêm một minh chứng rằng nhận định đó là có cơ sở. - Cùng lúc sử dụng cả BLHS và Luật sửa đổi để áp dụng vào thực tiễn là cả một vấn đề. Do vậy, bắt buộc sẽ có một văn bản quy phạm pháp luật nữa gọi là Văn bản hợp nhất BLHS 2015 để hợp nhất tất cả các nội dung đang còn hiệu lực của BLHS 2015 và Luật sửa đổi. Chính văn bản hợp nhất này mới thực sự được sử dụng trong thực tiễn vì nội dung của nó chỉ bao gồm những điều khoản còn hiệu lực. Người sử dụng (áp dụng) không phải ngó qua ngó lại cùng lúc 2 văn bản. Tuy nhiên chính nó cũng góp phần làm tăng năng suất sản xuất pháp luật của VN như đã đề cập. Tại sao không chọn phương án 1? Như đã phân tích phương án 2, sản phẩm cuối cùng được áp dụng phải là văn bản hợp nhất BLHS 2015 và Luật sửa đổi. Về bản chất và nội dung thì văn bản hợp nhất này chính là BLHS 2015 mới. Vậy tại sao ngay từ đầu chúng ta không ban hành luôn một BLHS 2015 mới? Xét về mặt quy trình, việc ban hành mới sẽ rút ngắn được công đoạn hơn vì không có khâu “ban hành văn bản hợp nhất” so với phương án ban hành Luật sửa đổi. Do vậy thời gian, công sức và chi phí cũng phải ít hơn. Phương án này chỉ có một hạn chế duy nhất là làm cho BLHS 2015 chết yểu khi mà nó chưa có hiệu lực đã phải bị thay thế bằng một BLHS mới. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của các nhà lập pháp.Tuy nhiên tôi cho rằng uy tín có thể cải thiện được nếu BLHS ban hành mới chỉnh chu về hình thức và chuẩn về nội dung. Kết luận BLHS 2015 có 426 Điều, nay phải sửa đến 119 Điều, nếu nói BLHS là một đại lộ thì đại lộ này có đến gần 30% là ổ gà, ổ vịt cần phải chắp vá. Việc sửa đổi, bổ sung không khác gì việc sửa đại lộ theo kiểu chắp vá, hư đâu sửa đó. Một đại lộ thì không thể được xây dựng theo kiểu đó được.
Quy trình hình thành BLHS 2015
Qua quan sát thực tiễn quy trình làm luật ở nước ta, tạm chia ra 17 công đoạn khi làm BLHS 2015 như sau: 1. QH chọn cơ quan soạn thảo dự luật (BLHS 2015 do Bộ Tư pháp soạn thảo); 2. Ban soạn thảo thành lập những tổ soạn thảo, các tổ này biên tập từng nội dung được giao; 3. Sau khi có đầy đủ dự thảo thì ban soạn thảo sẽ nghiệm thu; 4. Ban soạn thảo chủ trì việc lấy ý kiến các đoàn đại biểu QH và các ban ngành liên quan đến bộ luật; 5. Lấy ý kiến (có thể lấy nhiều lần và chú trọng vào các vấn đề còn có ý kiến khác nhau); 6. Ban soạn thảo họp để tiếp thu ý kiến của các nơi gửi về; 7. Ban soạn thảo chỉnh sửa dự thảo sau khi đã tiếp thu ý kiến trình Chính phủ; 8. Chính phủ trình dự thảo cho QH; 9. QH giao dự án luật cho các ủy ban chuyên môn (BLHS thì giao cho Ủy ban Tư pháp) thẩm định dự án luật; 10. Sau khi thẩm định, Ủy ban Tư pháp đưa dự án luật để UBTVQH cho ý kiến (có thể cho ý kiến một lần hoặc nhiều lần); 11. Nếu thống nhất thì UBTVQH trình dự án luật ra QH; 12. QH thảo luận và cho ý kiến về dự án luật (nếu là đạo luật lớn thì QH có thể cho lấy ý kiến nhân dân); 13. Sau khi QH thảo luận, UBTVQH tiếp thu ý kiến của các đại biểu QH; 14. UBTVQH trình lại cho QH; 15. QH thông qua tại kỳ họp (thông qua theo nguyên tắc: Từng điều một, một vài điều, một vấn đề và cuối cùng là thông qua toàn bộ); 16. Sau khi đại biểu bấm nút thì QH ban hành nghị quyết thi hành bộ luật; 17. Chủ tịch nước công bố BLHS 2015. So sánh với luật hiện hành thì BLHS mới đồ sộ, chi tiết hơn rất nhiều. Nhưng càng chi tiết thì càng cần nhiều thời gian để rà soát, đối chiếu. Bởi đó không phải là tập hợp từng điều luật độc lập, riêng rẽ, mà chúng có liên hệ chặt chẽ, logic với nhau. Nhìn vào quy trình nêu trên, có thể thấy trách nhiệm của các chủ thể liên quan.
Có hay không sự bất bình đẳng giữa DN nhà nước và DNTN khi BLHS 2015 có hiệu lực
Từ trước đến nay, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân luôn có sự khoảng cách nhất định. Đặc biệt là khoảng cách về các thủ tục hành chính, và những hoạt động liên quan đến các cơ quan nhà nước. DN nhà nước luôn được ưu tiên, đó được xem như là một "luật bất thành văn" từ trước tói nay. Đến khi BLHS 2015 chính thức được ban hành, trong đó có điểm nổi bật là pháp nhân cũng là chủ thể của tội phạm hình sự. Cụ thể những hành vi được cho là phạm tội của pháp nhân được quy định ở Điều 76 BLHS. Tuy nhiên, điểm đổi mới này của BLHS đặt ra cho ta nhiều vấn đề phát sinh. Trong đó sự công bằng giữa DN nhà nước và DN tư nhân được đẩy lên nội trội Liệu có sự công bằng hay không? Việc xử lý hình sự Pháp nhân thương mại sẽ thu hẹp hay giãn rộng khoảng cách phân biệt đối xử giữa Doanh nghiệp nhà nước và DN tư nhân.? Pháp luật quy định mọi doanh nghiệp đều bị xử lý hình sự nếu vi phạm như vậy DN nhà nước vi phạm cũng bị xử lý như DN tư nhân. Hình phạt có thể là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn tức là đóng cửa nhà máy xí nghiệp. Tuy nhiên việc xử lý hình sự đối với doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng phát hiện ra sai phạm. Mà điều này thì lại phụ thuộc vào năng lực thanh tra kiểm tra, đánh giá tính toán mức độ thiệt hại được thực hiện bởi các ban ngành nhà nước, và phụ thuộc vào kết quả giám định được thực hiện bởi cơ quan nhà nước. Như vậy liệu cơ quan nhà nước có nghiêm minh xử lý hình sự doanh nghiệp nhà nước công bằng bình đẳng như DN tư nhân không? Hay là quy định xử lý hình sự đối với doanh nghiệp sẽ lại là nhân tố làm giãn rộng thêm khoảng cách phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa DNNN và DN tư nhân? Giống như những bất bình đẳng trong các chính sách về ưu đãi tiếp cận nguồn vốn vay, ưu đãi về đất đai và các cơ chế chính sách như lâu nay? Có thể dự liệu đánh giá được phần nào nếu như có số liệu tổng hợp về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm của DNNN và DN tư nhân trong chục năm qua. Xem việc xử phạt vi phạm hành chính đối với DNNN và DN tư nhân có công bằng bình đẳng phân biệt đối xử không, để từ đó có thông tin để tham khảo đánh giá về việc xử lý hình sự doanh nghiệp. Và một điểm đáng chú ý nữa là Doanh nghiệp lớn hay nhỏ có nguy cơ phạm tội hình sự cao? Liệu có sự bất bình đảng giữa DN nhỏ và DN lớn? Từ ngày 1/7/2016 tới Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực quy định xử lý hình sự đối với Pháp nhân thương mại phạm tội. Xem xét những tội danh mà pháp nhân thương mại có thể phạm phải tại điều 76 thì thấy các doanh nghiệp lớn có nguy cơ bị xử lý hình sự cao hơn doanh nghiệp nhỏ. Lý do bởi vì các tội danh này đều dựa trên cơ sở mức độ định lượng tổn hại vật chất gây ra cho xã hội để làm căn cứ để định tội và định khung hình phạt. Do vậy những doanh nghiệp lớn có hoạt động sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn nếu có sai phạm sẽ dễ dàng gây ra mức độ thiệt hại đủ lớn để bị xử lý hình sự. Cho nên những doanh nghiệp lớn có nguy cơ bị xử lý hình sự cao hơn doanh nghiệp nhỏ trên mọi lĩnh vực ngành nghề. Dưới đây là những tội danh mà các doanh nghiệp có thể phạm phải. Luật đặt ra là như vậy, nhưng áp dụng thế nào là một chuyện khác. Hãy xem sau khi BLHS 2015 có hiệu lực, thì việc xử lý hình sự đối với các doanh nghiệp sẽ như thế nào?
Re:Bộ luật hình sự 2015: Tất tần tật các điểm mới
Chào các bạn, mình đã cập nhật xong 380 điểm mới của Bộ luật hình sự 2015. Để xem chi tiết, các bạn tải tại file đính kèm.