Xác định tuổi của người bị hại nói chung và xác định tuổi của người bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng là một yêu cầu bắt buộc. Từ đó làm căn cứ áp dụng đúng chính sách về trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 được ban hành, Thông tư liên tịch 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH đã có quy định hướng dẫn cách xác định độ tuổi đối với bị can, bị cáo và người bị hại là người chưa thành niên (viết tắt TTLT 01/2011) theo hướng bảo đảm nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.
Nhìn nhận từ khoảng trống của BLTTHS 2003 trước đây về vấn đề này, BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về “Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi” (BLTTHS 2003 trước đây chưa quy định). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc xác định tuổi của bị hại cũng như người phạm tội tại BLTTHS 2015 lại được ghi nhận theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo.
TTLT 01/2011 |
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 |
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị hại là người chưa thành niên thì tuổi của họ được xác định như sau: - Trường hợp xác định tháng, nhưng không xác định được ngày trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh; - Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh; - Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh; - Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh. 5. Trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại là người chưa thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ. |
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi thì xác định như sau: - Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì: lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. - Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. 3. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
|
Như vậy, các hướng dẫn xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi ở 02 văn bản quy phạm trên là hai hướng khác biệt nhau, một có lợi cho người phạm tội, một bất lợi cho người phạm tội. Bởi vì, nếu phạm tội với bị hại là người dưới 18 tuổi càng ít tuổi thì trách nhiệm của người phạm tội càng trở nên nghiêm trọng hơn và chịu mức phạt hà khắc hơn.
Vấn đề đặt ra là, trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 (ngày BLTTHS 2015 có hiệu lực), mà sau ngày này mới phát hiện điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định tuổi của người bị hại như thế nào? Áp dụng theo TTLT 01/2011 hay theo Điều 417 BLTTHS năm 2015? Nếu theo hướng có lợi cho người phạm tội thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng TTLT số 01/2011.
Cho đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức của cơ quan tiến hành tố tụng và TTLT 01/2011 cũng chưa có văn bản nào tuyên bố hết hiệu lực, nếu có tuyên bố hết hiệu lực thì việc xác định tuổi của người bị hại trong khi hành vi phạm tội được thực hiện trước trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, mà sau ngày này mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định tuổi của người bị hại vẫn phải theo hướng có lợi cho người phạm tội. Bởi vì, theo Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội thì những quy định nào bất lợi cho người phạm tội thì chỉ áp dụng đối với hành vi được thực hiện sau 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018.
Tuy nhiên, Điều 417 BLTTHS 2015 quy định không có lợi cho người phạm tội nhưng chỉ so với một văn bản dưới luật, còn BLTTHS 2003 không có điều luật nào quy định tương tự như Điều 417 BLTTHS năm 2015.
Do vậy, thiết nghĩ các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cần hướng dẫn để các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương áp dụng thống nhất.
Nguồn: Bài viết có sự tham khảo từ tài liệu “Xác định tuổi của người bị hại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế, nguyên Chánh tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao.