Cụ thể, các thông tư liên tịch về trách nhiệm hình sự mới được cập nhật bao gồm:
(1) Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-BCA-BQP-BTP-BNN&PTNT-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/01/2025 quy định quan hệ phối hợp trong hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
Thông tư liên tịch này do Bộ trưởng Bộ Công an - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ trưởng Bộ Tài chính - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Toà án nhân dân tối cao ban hành.
Trong đó, nội dung phối hợp trong đánh giá, sử dụng kết luận giám định được quy định tại Điều 8 Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-BCA-BQP-BTP-BNN&PTNT-BTC-VKSNDTC-TANDTC như sau:
- Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
+ Việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định phải bảo đảm tính hợp pháp, khách quan, khoa học, chính xác, thống nhất, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong vụ án, vụ việc;
+ Trường hợp kết luận giám định chưa trả lời rõ nội dung cần giám định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu cá nhân, tổ chức giám định tư pháp giải thích, làm rõ. Trường hợp cần thiết, có thể tổ chức họp với cá nhân, tổ chức giám định tư pháp và chuyên gia ở lĩnh vực chuyên môn đó hoặc đại diện của cơ quan có liên quan để làm rõ nội dung kết luận giám định;
+ Trường hợp trong vụ án, vụ việc có kết luận giám định khác nhau về cùng một nội dung thì xem xét, đánh giá, sử dụng kết luận giám định theo các tiêu chí: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người giám định; phương pháp, quy trình thực hiện giám định; trang thiết bị, phương tiện chuyên dụng sử dụng thực hiện giám định; sự độc lập, khách quan của việc thực hiện giám định;
+ Hằng năm thông báo bằng văn bản cho cá nhân, tổ chức giám định tư pháp kết quả đánh giá, sử dụng kết luận giám định.
- Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức giám định tư pháp:
+ Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị giải thích, làm rõ nội dung kết luận giám định, cá nhân, tổ chức giám định tư pháp có văn bản trả lời. Nếu không đảm bảo thời gian trả lời phải có văn bản nêu rõ lý do;
+ Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp kết quả đánh giá, sử dụng kết luận giám định để rút kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công tác.
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã trưng cầu giám định và cá nhân, tổ chức giám định tư pháp thống nhất, thực hiện việc giao, nhận kết luận giám định, hồ sơ, đối tượng cần giám định, tài liệu, đồ vật, mẫu vật kèm theo quyết định trưng cầu sau khi kết thúc việc thực hiện giám định.
(2) Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-KTNN-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc trao đổi, chuyển thông tin và kiến nghị xem xét, khởi tố vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Thông tư liên tịch này do Tổng Kiểm toán Nhà nước - Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Công an - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành.
Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-KTNN-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về việc chuyển thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm và kiến nghị xem xét, khởi tố vụ việc có dấu hiệu tội phạm:
- Trong phạm vi, giới hạn cuộc kiểm toán, nếu phát hiện vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, gây thất thoát, lãng phí tài chính công, tài sản công thì Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm chuyển các tài liệu liên quan chứng minh việc gây thất thoát, lãng phí tài chính công, tài sản công đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật; đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Cụ thể:
+ Trường hợp phát hiện và thu thập được bằng chứng về vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, gây thất thoát, lãng phí tài chính công, tài sản công thì Kiểm toán nhà nước có văn bản chuyển thông tin vụ việc sang Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật;
+ Trường hợp đã thu thập được đầy đủ bằng chứng và làm rõ dấu hiệu tội phạm, gây thất thoát, lãng phí tài chính công, tài sản công thì Kiểm toán nhà nước kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo các tài liệu, bằng chứng đã thu thập được sang Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, khởi tố vụ án hình sự.
Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nếu xét thấy cần thiết thì trước khi kiến nghị bằng văn bản, Kiểm toán nhà nước tổ chức họp liên ngành gồm Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra có thẩm quyền, Viện kiểm sát để phân tích, đánh giá những tài liệu đã thu thập được. Trường hợp liên ngành thống nhất xác định vụ việc đã rõ dấu hiệu tội phạm thì Kiểm toán nhà nước có văn bản kiến nghị và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền, kèm theo hồ sơ, tài liệu có liên quan để xem xét, khởi tố.
+ Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định việc chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra.
- Đối với vụ việc chưa xác định rõ thẩm quyền của Cơ quan điều tra cấp nào trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thì thực hiện như sau:
+ Đối với vụ việc không thuộc lĩnh vực quốc phòng, Kiểm toán nhà nước chuyển hồ sơ sang Bộ Công an, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Đối với vụ việc thuộc lĩnh vực quốc phòng, Kiểm toán nhà nước chuyển hồ sơ sang Bộ Quốc phòng, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Một số thông tư liên tịch về trách nhiệm hình sự mới cập nhật năm 2025 (Hình từ internet)
(3) Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BQP hướng dẫn Điều 3 Nghị quyết 164/2024/QH15 thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự
Thông tư liên tịch này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Công an - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành
Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BQP quy định các biện pháp xử lý vật chứng, tài sản về việc trả lại tiền cho bị hại như sau:
- Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét quyết định trả lại tiền đã thu giữ, tạm giữ, phong tỏa cho bị hại hoặc đại diện của bị hại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 khi có đủ các căn cứ, điều kiện sau:
+ Đã xác định được rõ chủ sở hữu đối với số tiền đã thu giữ, tạm giữ, phong tỏa;
+ Đã xác định rõ bị hại, tổng thiệt hại và số tiền bị thiệt hại đối với từng bị hại;
+ Có văn bản đề nghị được trả lại số tiền bị thiệt hại của các bị hại hoặc đại diện của bị hại;
+ Có văn bản đề nghị trả lại số tiền bị thiệt hại của bị can, bị cáo hoặc người khác là chủ sở hữu.
- Số tiền xem xét quyết định trả lại cho bị hại được xác định như sau:
+ Số tiền xem xét quyết định trả lại cho bị hại được xác định bằng tổng số tiền thu giữ, tạm giữ, phong tỏa trừ đi số tiền tạm tính về án phí, lệ phí và các khoản ưu tiên thi hành khác theo quy định pháp luật thi hành án dân sự;
+ Trường hợp số tiền xem xét quyết định trả lại cho bị hại theo quy định tại điểm a khoản này lớn hơn hoặc bằng tổng số tiền thiệt hại của các bị hại thì trả lại toàn bộ cho bị hại. Phần tiền còn lại (nếu có) được xử lý theo Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BQP;
+ Trường hợp số tiền xem xét quyết định trả cho bị hại theo quy định tại điểm a khoản 2 nhỏ hơn tổng số tiền thiệt hại của các bị hại thì mỗi bị hại được trả lại theo tỷ lệ dựa trên tổng số tiền xem xét trả lại cho các bị hại theo quy định tại điểm a khoản 2 so với tổng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
+ Trường hợp tiền thu giữ, tạm giữ, phong tỏa là đồng tiền của quốc gia, vùng lãnh thổ khác hoặc đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực thì khi quyết định trả lại tiền cho bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng phải đề nghị một tổ chức tín dụng có thẩm quyền quy đổi và tiến hành chi trả bằng tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm chi trả;
+ Trường hợp đến giai đoạn xét xử Tòa án xác định số tiền đã trả cho bị hại không đúng với thiệt hại thực tế mà bị hại đó đã được nhận thì Hội đồng xét xử quyết định xử lý trong bản án, quyết định.
- Trình tự, thủ tục trả lại tiền cho bị hại được thực hiện như sau:
+ Cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu để xác định căn cứ, điều kiện trả lại tiền cho bị hại và thông báo cho bị hại, bị can, bị cáo, người khác là chủ sở hữu số tiền để họ có văn bản đề nghị. Trường hợp vụ án có nhiều bị hại mà không thể thực hiện việc thông báo trực tiếp cho bị hại thì cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu rõ thời hạn gửi văn bản đề nghị trả tiền;
+ Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn theo thông báo, nếu có văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức họp để thống nhất việc quyết định trả lại tiền cho bị hại. Cuộc họp phải được lập biên bản có chữ ký của đại diện các cơ quan tham gia;
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc họp theo quy định tại điểm b khoản này, nếu thống nhất được thì người có thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 7 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 ra quyết định trả lại tiền cho bị hại; trường hợp không thống nhất thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho người có văn bản đề nghị biết;
+ Quyết định trả lại tiền cho bị hại phải được ghi rõ trong kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, quyết định của Tòa án. Quyết định trả lại tiền cho bị hại, văn bản thông báo không áp dụng biện pháp được đưa vào hồ sơ vụ án.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định áp dụng hoặc văn bản thông báo không áp dụng biện pháp trả lại tiền cho bị hại phải được gửi, giao như sau:
+ Gửi cho Viện kiểm sát, cơ quan tiến hành tố tụng đã tham gia họp; tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước có liên quan trong trường hợp ra quyết định áp dụng;
+ Giao cho bị can, bị cáo, bị hại hoặc đại diện của bị hại, chủ sở hữu hợp pháp của số tiền.
- Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng khi nhận được quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện ngay việc trả lại tiền cho bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ và gửi các chứng từ thanh toán cho cơ quan tiến hành tố tụng đã ra quyết định để theo dõi, làm cơ sở xử lý vụ án.
(4) Thông tư liên tịch 02/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 27/02/52025 quy định về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự khi không tổ chức Công an cấp huyện
Thông tư liên tịch này do Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
Tại Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC có quy định về thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an nhân dân như sau:
- Thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh như sau:
+ Tiến hành tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của Bộ luật Hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra của Công an nhân dân;
+ Tiến hành tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2025 xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài;
+ Tiến hành tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2025 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm của Công an cấp xã, Đồn Công an.
(5) Thông tư liên tịch 03/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định về xử lý vấn đề liên quan đến áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi khi sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước
Thông tư liên tịch này do Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
Điều 7 Thông tư liên tịch 03/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như sau:
- Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy quy định tại Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính được thực hiện như sau:
+ Trường hợp người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
+ Trường hợp người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì Trưởng Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
+ Trường hợp người nghiện ma túy do cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì cơ quan, đơn vị đang thụ lý vụ việc, vụ án hoàn thiện hồ sơ vi phạm và chuyển cho Công an cấp xã có thẩm quyền để lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Thông tư liên tịch 03/2025;
+ Hồ sơ đề nghị quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Thông tư liên tịch 03/2025 gồm có: biên bản vi phạm; bản tóm tắt lý lịch; tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đó; bản tường trình của người nghiện ma túy hoặc của người đại diện hợp pháp của họ và các tài liệu khác có liên quan;
+ Trường hợp người nghiện ma túy tự đến Công an cấp xã để khai báo về tình trạng nghiện của mình và có đơn xin đi cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc thì hồ sơ đề nghị gồm có: đơn tự nguyện xin đi cai nghiện; bản tóm tắt lý lịch; tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đó; bản tường trình của người nghiện ma túy hoặc của người đại diện hợp pháp của họ và các tài liệu khác có liên quan.
Tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đó được thực hiện như sau: Nếu người đó có phiếu xác định tình trạng nghiện của cơ quan có thẩm quyền còn trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày cấp thì sử dụng phiếu này; nếu người đó không có phiếu xác định tình trạng nghiện hoặc có phiếu xác định tình trạng nghiện của cơ quan có thẩm quyền cấp đã quá thời hạn 06 tháng kể từ ngày cấp thì Công an cấp xã hướng dẫn họ thực hiện việc xác định tình trạng nghiện.
- Cơ quan, đơn vị thuộc Công an cấp tỉnh quy định tại điểm c khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch 03/2025, Công an cấp xã lập hồ sơ đề nghị phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của tài liệu, hồ sơ đề nghị. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, Công an cấp xã lập hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.
Nguyễn Tùng Lâm