|
Hình minh họa |
• Ngoài những hệ quả xã hội và kinh tế, hiện tượng DN “rút khỏi thị trường” gây ra những hệ quả pháp lý như thế nào, thưa ông?
- Khi DN kinh doanh thua lỗ, kết cục
cuối cùng có thể là vượt qua được thời kỳ gian khó nếu DN tái cơ cấu
chính mình và tìm ra hướng phát triển mới, nhưng cũng có thể rơi vào kết
cục buộc phải giải thể hoặc mở thủ tục phá sản để rồi chính thức bị
tuyên bố phá sản.
Khi DN thua lỗ, phải rút khỏi thị
trường, dù dưới tên là giải thể hay phá sản thì cũng để lại những hệ quả
xã hội và pháp lý quan trọng. Nhìn từ góc độ pháp lý, sự rút khỏi thị
trường của DN (khi bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản), tất yếu dẫn
tới sự chấm dứt hàng loạt mối quan hệ pháp lý trong quan hệ giữa chủ đầu
tư và DN (một loại quan hệ đầu tư, góp vốn); quan hệ giữa DN và chủ nợ
cho vay vốn (trong đó có cả các chủ nợ phát sinh từ quan hệ thương mại);
quan hệ giữa DN và đối tác trong kinh doanh (chấm dứt các hợp đồng:
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan); quan hệ giữa DN với cơ
quan nhà nước (trong đó có cơ quan đăng ký DN, cơ quan thanh tra, kiểm
tra, các cơ quan khác…, chấm dứt các quan hệ về con dấu, mã số thuế
v.v...); quan hệ giữa DN với người lao động, trong bối cảnh ấy, có thể
lại phát sinh mối quan hệ mới, đó là quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm,
trợ cấp thất nghiệp giữa người lao động bị thất nghiệp với cơ quan bảo
hiểm xã hội và các quan hệ khác như quan hệ tài trợ hoạt động quảng cáo,
tài trợ hoạt động từ thiện v.v... cũng sẽ chấm dứt.
• Như
vậy, khi DN tạm dừng hay chấm dứt hoạt động sẽ dẫn đến sự “đứt gãy” của
nhiều quan hệ pháp lý. Vậy, pháp luật cần làm gì để giải quyết sự “đứt
gãy” này, thưa ông?
- Pháp luật hiện hành đã có những quy
định làm nền tảng cho việc DN rút lui khỏi thị trường một cách có trật
tự, lành mạnh. Đó là các quy định về thủ tục giải thể và phá sản DN thể
hiện chủ yếu trong các văn bản pháp luật như:
Luật Doanh nghiệp 2005 và
Luật Phá sản năm 2004 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, đối với việc giải quyết
hậu quả pháp lý khi DN giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản, theo phản ánh
của không ít người đã từng đi làm thủ tục giải thể DN, việc tiến hành
giải thể một DN trên thực tế thường không đơn giản như quy định của
Luật
Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định. Việc rút khỏi thị trường bằng thủ
tục phá sản DN theo
Luật Phá sản năm 2004 cũng rất nhiêu khê. Do đó, đòi
hỏi nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật cũng như công tác thực
thi pháp luật về giải thể, phá sản DN, để những DN không còn đủ sức tiếp
tục kinh doanh nữa có thể được “giải thoát” một cách nhanh chóng, thuận
tiện hơn nữa.
• Vậy
“điểm nghẽn” của pháp luật hiện hành đang ngăn quyền được “chết” của
doanh nghiệp. Theo ông, cần sửa đổi pháp luật như thế nào để DN thoát
khỏi cảnh “dở sống, dở chết”?
- Theo tôi, các quy định về giải thể
trong
Luật DN năm 2005 và các văn bản hướng dẫn nên quy định rõ hơn thời
hạn DN phải gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh (để làm
thủ tục xóa tên DN) sau khi đã làm thủ tục đóng mã số thuế tại cơ quan
thuế. Pháp luật cũng nên quy định rõ quyền khước từ việc trả nợ của DN
nếu như trong thời hạn nhất định (chẳng hạn 4 hoặc 6 tháng) kể từ ngày
chủ nợ nhận được quyết định giải thể của DN mà không tiến hành việc xác
nhận nợ và thanh quyết toán nợ với DN.
Quy định này sẽ làm cho các chủ nợ có
trách nhiệm hơn đối với việc giải thể của DN. Bên cạnh đó, các quy định
về xử lý vi phạm pháp luật đối với các chủ thể có liên quan trong lĩnh
vực giải thể DN (quy định tại
Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư)
cần sửa đổi theo hướng quy định rõ và cá thể hóa trách nhiệm của chủ DN,
đại diện của DN phải đảm bảo tính trung thực trong các thông tin báo
cáo với các cơ quan hữu quan về tình hình nợ của DN khi làm thủ tục giải
thể DN. Pháp luật cũng cần quy định rõ trách nhiệm của những người này
khi không tiến hành thủ tục giải thể với cơ quan đăng ký kinh doanh mặc
dù đã làm thủ tục đóng mã số thuế.
Pháp luật phá sản DN cũng cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung mà trước mắt là sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản năm
2004, theo hướng làm rõ hơn tiêu chí DN lâm vào tình trạng phá sản, nên
cân nhắc để bổ sung quy định cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tăng cường vai trò chủ động của chủ nợ
trong việc áp dụng thủ tục thanh toán hoặc thủ tục tuyên bố DN bị phá
sản tại Hội nghị chủ nợ, quy định cụ thể về việc Tòa án quyết định
chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ
tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố DN phá sản nhằm kết
thúc sớm tiến trình giải quyết việc phá sản tại Tòa án v.v…
Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên có
chính sách khuyến khích các công ty luật, các công ty tư vấn tài chính
tham gia tích cực hơn vào quá trình phục hồi DN hoặc làm thủ tục phá sản
DN.
• Trân trọng cảm ơn ông!
“Sống dở, chết dở"... vì luật
Trong lúc kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp (DN) làm ăn bết bát,
có những DN không có tiền trả lương công nhân, những thông tin như Hải
Phòng 1/3 DN đóng cửa, Vĩnh Phúc 41% DN ngừng kinh doanh ... dồn dập dội
về, đóng góp vào con số DN ngừng hoạt động gia tăng. Vậy, cách nào để
các DN có khả năng phục hồi, được bơm thêm “thuốc tăng lực” khỏe lại,
còn những DN “yếu quá” thì sẽ rút lui khỏi thị trường - “chết” nhẹ nhàng
và có trật tự....?