Bản án XX/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN XX/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ LY HÔN 

Ngày 21 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 211/2020/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐST - HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1979 HKTT: Thôn TT, xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Nơi ở: Thôn PH, xã MP, Sóc Sơn, Hà Nội

2. Bị đơn: Ông Hoàng Văn M, sinh năm 1974 HKTT: Thôn TT, xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Nơi ở: Thôn PH, xã MP, Sóc Sơn, Hà Nội.

Có mặt: Bà T, ông M

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Quan điểm khởi kiện của nguyên đơn, bà Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng:

Bà và ông Hoàng Văn M lấy nhau tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục tập quán của địa phương và chung sống với nhau từ ngày 02/9/1995 ở thôn TT, xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội trên đất của gia đình ông M. Sau khi sinh con đầu lòng xong thì ông bà mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào ngày 15/12/1996. Đến năm 2004, do ông M ham chơi bời, hay đánh đập bà nên bà bỏ về nhà mẹ đẻ ở thôn PH, xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội sinh sống. Sau đó, vợ chồng có hòa giải được mâu thuẫn nên ông M đã dọn về ở với bà tại nhà đất của bố mẹ đẻ bà ở thôn PH, xã MP. Khi đó mẹ đẻ của bà cũng ủng hộ việc ông bà sinh sống trên nhà đất của bố mẹ đẻ bà vì nghĩ rằng khi ở cùng gia đình nhà vợ thì ông M sẽ không dám đánh đập vợ nữa. Tuy nhiên, mâu thuẫn của vợ chồng vẫn không giảm bớt do ông M mải rượu chè, trai gái, bà có khuyên nhủ thì ông M không những không nghe mà còn chửi bới đánh đập bà, mỗi năm ít nhất 02 lần, có lần bà phải chạy ra khỏi nhà để thoát thân, ông M còn chạy theo lên nhà mẹ đẻ bà trên cùng một dải đất đập phá nhà của mẹ bà. Ngoài những mâu thuẫn đó, ông M còn là người thiếu trách nhiệm với vợ con, có đi làm thì cũng ỷ lại vợ, không tự giác lo ăn học cho con cái, đến nỗi con lớn của ông bà còn phải tự phân công trách nhiệm cho ông M việc đóng học phí sau khi cháu đỗ vào đại học. Ông M cũng đồng ý là có trách nhiệm lo cho cháu học đại học nhưng mỗi tháng ông M chỉ cho cháu được nhiều nhất là 1.000.000 đồng, ngoài ra không hề đưa tiền để bà lo cho gia đình. Bản thân bà phải xoay xở nhiều nghề để kiếm sống, thậm chí phải làm giúp việc cho nhà người ta thì ông M vẫn bảo bà là đi ngủ với trai, đi làm cave. Mặc dù vợ chồng có nhiều mâu thuẫn nhưng bà luôn muốn gìn giữ gia đình, không muốn hôn nhân tan vỡ, nhiều người bảo bà ngu dại nhưng bà vẫn cố nhẫn nhịn, ngay cả những lúc ông M chửi bới thì bà vẫn xưng hô đúng mực với ông M, chưa một lần hỗn láo, chưa bao giờ khinh khổ chì chiết chồng vì tiền bạc. Tuy nhiên, sức chịu đựng của bà cũng có giới hạn, bà càng chịu đựng thì ông M lại càng quá đáng với bà. Mâu thuẫn của ông bà nhiều lần xảy ra to tiếng, ông M đập phá, có cả sự can thiệp của trưởng thôn, thậm chí có lần mẹ bà còn phải báo công an xã và Công an 113 nhưng ông M không hề sửa đổi tâm tính. Do mâu thuẫn không thể khắc phục nên tháng 10.2019, bà đã xin ly hôn ông M tại Tòa án huyện Sóc Sơn nhưng được Tòa án hòa giải và ông M có hứa sửa chữa, cam kết bằng văn bản nên bà đã rút đơn và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên chỉ sau hai tháng ông M sống tử tế còn từ đầu năm 2020 đến nay, ông M không hề có trách nhiệm với vợ con, đi làm thợ xây nhưng không hề đưa tiền cho vợ nuôi con mà thỉnh thoảng còn xin tiền của vợ để tiêu. Có những khi bà đi làm, ông M ở nhà quát tháo các con, nói xấu, xúc phạm nhân phẩm của bà, gọi bà là cave khiến các con hoảng sợ và mệt mỏi, giục bà ly hôn để có được cuộc sống yên bình.

Lần này sau khi Tòa án thụ lý vụ án, cuộc sống không có ngày nào bình yên do ông M chì chiết bà hàng ngày, có lúc bà mệt mỏi ức chế chỉ muốn tự tử. Khoàng 02 tháng nay, do không chịu nổi cuộc sống chung nhà nên bà đã phải thuê nhà ở gần đó để ở riêng. Vợ chồng bà đã ly thân nhiều tháng nay, hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm gì với nhau.

Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài, không thể khắc phục được, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông M.

Về con chung: Bà và ông M có 03 con chung là:

Hoàng Văn S - sinh ngày 19/7/1996; Hoàng Thị Thu H - sinh ngày 28/01/2000; Hoàng Văn Q - sinh ngày 09/4/2004.

Cháu S và cháu H đều đã thành niên và cả 03 cháu đều khỏe mạnh bình thường. Sau khi ly hôn, Cháu S và cháu H đã thành niên nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q. Việc cấp dưỡng nuôi con, bà và ông M tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện bà làm công nhân tại Công ty Sjitech ở Khu công nghiệp ở Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, thu nhập bình quân 4.500.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, công sức chung, nợ: Bà và ông M tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Quan điểm của bị đơn là ông Hoàng Văn M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng:

Ông nhất trí với Bà T đã trình bày về thời gian, hoàn cảnh, điều kiện kết hôn. Ông bà chung sống thỉnh thoảng có phát sinh mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt hàng ngày và ông nghĩ đó là chuyện bình thường của các gia đình. Nguyên nhân cũng chỉ là do Bà T hay đi làm về muộn, ông có hỏi thì Bà T vùng vằng không nói, ông có muốn quan tâm thì Bà T cũng cũng không chấp nhận, vì vậy cuộc sống không có hạnh phúc.

Bản thân ông không bao giờ muốn đánh vợ hay gây sự với vợ mà nguyên nhân chỉ do Bà T lạnh nhạt, không quan tâm tới ông. Ông có cảm giác Bà T đi làm ở bên ngoài về nhà chán chồng, lúc nào cũng muốn hắt hủi, ruồng rẫy chồng. Cũng vì nguyên nhân này mà vợ chồng nhiều lần xảy ra mâu thuẫn. Ông công nhận là tính ông hay ghen tuông mặc dù không có bằng chứng gì về việc Bà T ngoại tình. Ông cũng công nhận là trước kia còn trẻ thì thỉnh thoảng có đánh Bà T nhưng thời gian sau này ông không đánh Bà T nữa. Cũng có lúc do tức giận, ông có đập phá đồ đạc. Cũng do vợ chồng cãi nhau nên đã có lần chị gái và anh trai của Bà T xuống đánh đấm ông. Rồi lại cũng có lần vợ chồng cãi nhau, mẹ Bà T còn báo công an đến can thiệp. Gần cuối năm 2019, vợ chồng mâu thuẫn nhau cũng một phần là do sau khi bán một phần đất không thống nhất được việc ai là người giữ tiền, bà Mai đã làm đơn ly hôn ông tại Tòa án huyện Sóc Sơn. Sau đó Tòa án hòa giải, Bà T rút đơn và Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.

Mặc dù mâu thuẫn nhưng ông sẵn sàng hòa giải, nhưng Bà T không có thiện chí. Do tình cảm vợ chồng lạnh nhạt nên ông chán nản mới uống rượu. Vợ chồng ông bà ly thân vài tháng nay. Khoảng 02 tháng nay, Bà T đã dọn ra ngoài thuê nhà ở riêng, để mặc ông ở nhà cơm nước chăm sóc các con.

Nay Bà T lại xin ly hôn ông thì ông xác định ông vẫn còn tình cảm với Bà T, mâu thuẫn của ông bà đã xảy ra cũng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, bình thường của các gia đình. Hơn nữa vì ông thương các con, muốn giữ một gia đình hoàn chỉnh cho các con nên Bà T xin ly hôn, ông không nhất trí.

- Về con chung: Ông nhất trí với Bà T là vợ chồng có 03 con chung là Hoàng Văn S - sinh ngày 19/7/1996; Hoàng Thị Thu H - sinh ngày 28/01/2000; Hoàng Văn Q - sinh ngày 09/4/2004.

Cả 03 cháu đều khỏe mạnh bình thường. Cháu S và cháu H đều đã thành niên nên không ai phải nuôi dưỡng. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà T thì ông đồng ý để Bà T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q. Hiện ông làm thợ xây tự do, thu nhập bình quân 6.000.000 đồng/tháng. Ông làm lao động tự do nên không có xác nhận mức thu nhập để nộp cho Tòa án.

- Về tài sản chung, công sức chung, nợ: Ông không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa, Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn ông M và xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q. Ông M không nhất trí ly hôn với Bà T nhưng cũng nhất trí để Bà T nuôi cháu Q nếu yêu cầu ly hôn của Bà T được Tòa án chấp nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã nhiều lần tự ý bỏ về là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị T; Giao con chung chưa thành niên là cháu Hoàng Văn Q cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và không phải giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con do hai bên không có yêu cầu. Ghi nhận sự tự nguyện của các bên không yêu cầu giải quyết về tài sản chung, công sức chung, nợ. Bà T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ; căn cứ kết quả thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa; căn cứ việc hỏi tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết:

Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MP, huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào ngày 15/12/1996. Như vậy hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Bà T và ông M đều có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và có nơi cư trú tại huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, do vậy Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tình cảm vợ chồng và nguyên nhân mâu thuẫn:

Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M cùng thừa nhận là vợ chồng có mâu thuẫn từ trước khi Toà án huyện Sóc Sơn thụ lý vụ án mặc dù không thống nhất với nhau về nguyên nhân mâu thuẫn, quá trình mâu thuẫn và mức độ mâu thuẫn. Bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục được, bà xin được ly hôn ông M. Ông M xác định ông vẫn còn tình cảm với Bà T, mâu thuẫn của ông bà đã xảy ra cũng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, là mâu thuẫn bình thường của các gia đình. Hơn nữa vì ông thương các con, muốn giữ một gia đình hoàn chỉnh cho các con nên Bà T xin ly hôn, ông không nhất trí.

Xét thấy: Cuộc sống chung giữa bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M không hạnh phúc, không tin tưởng, không quan tâm và có trách nhiệm với nhau. Mâu thuẫn của ông bà đã kéo dài nhiều năm nay, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đã nhiều lần có sự can thiệp của trưởng thôn, thậm chí báo gọi cả công an 113 can thiệp.

Năm 2019 Bà T đã xin ly hôn ông M tại Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, sau khi được Tòa án hòa giải, Bà T đã rút đơn khởi kiện ly hôn và Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên sau khi Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, ông bà chỉ hòa thuận được thời gian ngắn lại xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 02 tháng nay, Bà T đã thuê nhà ở riêng, ông bà ly thân, hai bên không có trách nhiệm gì với nhau. Như vậy, cuộc sống của ông bà không còn hạnh phúc và mục đích hôn nhân không đạt được. Nay Bà T đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với ông M, ông M không nhất trí ly hôn với Bà T vì muốn giữ gia đình hoàn chỉnh cho các con không phải là cơ sở để tồn tại hôn nhân, do vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị T theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn:

Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M thống nhất xác định có 03 con chung là Hoàng Văn S - sinh ngày 19/7/1996; Hoàng Thị Thu H - sinh ngày 28/01/2000; Hoàng Văn Q - sinh ngày 09/4/2004.

03 con của ông bà đều khỏe mạnh bình thường. Cháu Hoàng Văn S và Hoàng Thị Thu H đều đã thành niên nên không ai phải nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, Bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn Quỳnh. Cháu Q đã có ý kiến muốn được ở với Bà T, ông M cũng có ý kiến là nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà T thì ông cũng nhất trí để Bà T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q, do vậy giao cháu Q cho Bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Bà T và ông M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên không phải giải quyết.

Sau khi ly hôn ông Hoàng Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, công sức chung, nợ: Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không phải giải quyết. Do vậy giành quyền khởi kiện chia tài sản chung, công sức chung, nợ của vợ chồng sau ly hôn bằng vụ kiện dân sự khác khi bà Nguyễn Thị T, ông Hoàng Văn M có yêu cầu.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273; Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Khoản 1, 2 Điều 81, Khoản 3 Điều 82 và Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị T.

2. Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Hoàng Văn M.

3. Về con chung: Giao con chung chưa thành niên là Hoàng Văn Q - sinh ngày 09/4/2004 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, Bà T và ông M tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết cho đến khi con chung thành niên hoặc đến khi có quyết định khác của Tòa án.

Ông Hoàng Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung, công sức chung, nợ: Giành quyền khởi kiện chia tài sản chung, công sức chung, nợ của vợ chồng bằng vụ án dân sự khác khi bà Nguyễn Thị T, ông Hoàng Văn M có yêu cầu.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà đã nộp theo biên lai số AA/2018/0018647 ngày 14/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Bà T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án XX/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn 

Số hiệu:XX/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về