Bản án về xin ly hôn số 163/2022/HNGĐ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 163/2022/HNGĐ NGÀY 23/06/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 41/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc: “Xin ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/QĐXX-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ái L – Sinh năm: 1987 (có mặt). Trú tại: Tổ 7, thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Bị đơn: Ông Nguyễn Bá N – sinh năm 1978 (vắng mặt không có lý do). Trú tại: Tổ 7, thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/02/2022 và biên bản trình bày cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái L trình bày:

Tôi và ông Nguyễn Bá N tự tìm hiểu và kết hôn năm 2007 có đăng ký tại UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẩn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điển sống, vợ chồng sống 05 năm đã không có tiếng nói chung nên thường xuyên cải vả, xúc phạm nhau, bản thân ông N rất vũ phu nên thường xuyên đánh đập tôi, cuộc sống vợ chồng tôi đã được hai bên gia đình khuyên nhủ rất nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả gì, hiện nay vợ chồng tôi đã sống ly thân được 05 năm không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay tôi thấy cuộc sống hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên tôi xin tòa cho tôi được ly hôn với ông Nguyễn Bá N.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Bá T – sinh ngày 11/12/2008.

Nguyện vọng xin nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa điều chỉnh. Về nợ chung: Tôi và ông N không có nợ chung.

* Bị đơn ông Nguyễn Bá N mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Bá N nhưng ông Nam vẫn không đến Tòa làm việc. Do đó, Tòa án không thu thập được lời khai của ông N.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư Ký, Hội đồng xét xử, nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, trình tự thu thập chứng cứ là đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn không tuân thủ các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà Nguyễn Thị Ái L.

+ Về con chung: Đề nghị xử giao cho bà L nuôi con chung Nguyễn Bá T – sinh ngày 11/12/2008 đến 18 tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

+ Về tài sản chung: Bà L khai vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu tòa án điều chỉnh nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

+ Về nợ chung: Bà L khai không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ lời trình bày của đương sự căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Đây là quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vụ án có bị đơn ông Nguyễn Bá N cư trú tại huyện T, tỉnh Quảng Nam. Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Nam thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn ông Nguyễn Bá N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt ông N.

Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị Ái L và ông Nguyễn Bá N tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn vào ngày 18/12/2007, có đăng ký tại UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Như vậy, hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân là do trong quá trình chung sống vợ chồng tính tình không hợp, luôn bất đồng về quan điểm và cách sống, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên cải vả xúc phạm nhau. Nay bà L thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên xin được ly hôn với ông Nguyễn Bá N. Còn về phía ông Nguyễn Bá N không chịu hợp tác làm việc với Tòa, cố tình trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Hành vi của ông N thể hiện sự coi thường pháp luật và không có thiện chí trong việc hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ. Với lại mâu thuẫn vợ chồng của bà L và ông N đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân trong một thời gian mà tình hình vẫn không cải thiện, vợ chồng không thể bỏ qua mâu thuẫn để quay về sống với nhau nên việc bà L xin ly hôn là có cơ sở, phù hợp với Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Ái L và ông Nguyễn Bá N có 01 con chung Nguyễn Bá T – sinh ngày 11/12/2008. Nguyện vọng của bà L xin nuôi con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy việc nuôi con là trách nhiệm của cả mẹ và cha, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc phải đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của con chung. Theo các chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thì bà L có công việc làm ổn định, mức thu nhập đảm bảo để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, hiện nay cháu T đang sinh sống với bà L tại xã B, huyệnT. Cháu T trên 7 tuổi có nguyện vọng ở với bà L. Hơn nữa, ông N coi thường pháp luật, không có thiện chí hợp tác với tòa để giải quyết vụ án. Do đó, bà L có nguyện vọng xin nuôi con là có căn cứ, đúng pháp luật nên xử giao con chung Nguyễn Bá T – sinh ngày 11/12/2008 cho bà Nguyễn Thị Ái L nuôi dưỡng đến 18 tuổi trưởng thành là phù hợp với Điều 81, 82, 83 luật HN&GĐ Việt Nam.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Ái L không yêu cầu ông Nguyễn Bá N cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa điều chỉnh nên Hội đồng xét xử không xét.

Về nợ chung: Vợ chồng hiện không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.

Án phí LHST: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng y) xét buộc bà Nguyễn Thị Ái L phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí LHST 300.000 đồng bà L đã nộp theo biên lai thu số 0005742 ngày 21/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình.

Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam là đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51; Điều 56, Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 177, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: : Xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ái L. Xử cho bà Nguyễn Thị Ái L và ông Nguyễn Bá N ly hôn.

2. Về con chung: Xử giao cho bà Nguyễn Thị Ái L nuôi con chung Nguyễn Bá T – sinh ngày 11/12/2008 đến 18 tuổi trưởng thành

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Ái L không yêu cầu ông Nguyễn Bá N cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa điều chỉnh nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về nợ chung: Vợ chồng hiện không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.

5. Án phí LHST: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng y) xét buộc bà Nguyễn Thị Ái L phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí LHST 300.000 đồng bà L đã nộp theo biên lai thu số 0005742 ngày 21/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 163/2022/HNGĐ

Số hiệu:163/2022/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thăng Bình - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về