Bản án về xin ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 16 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 09/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2022 về việc Xin ly hôn - Theo quyết định xét xử số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 2 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 07A/2022/QĐST- HNGĐ ngày 28/02/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị X - Sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT: Bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La.

Hiện cư trú tại: Bản C, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn O - Sinh năm 1980; Nơi ĐKHKTT: Bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La.

Hiện đang chấp hành án tại trại giam Yên Hạ thuộc huyện Phú Yên, tỉnh Sơn La.Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 10 năm 2021 và bản tự khai chị Lò Thị Xôm trình bày:

Chị và anh Lò Văn O kết hôn trên cơ sở tự nguyện từ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mường Hung, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau tại bản Hong Dồm, xã Mường Hung, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau tính cách, mỗi người một quan điểm sống, không cùng nhau làm ăn kinh tế lo cho gia đình, con cái dẫn tới thường xuyên cãi vã. Anh O không quan tâm tới vợ con, thường xuyên chơi bời, hút hít ma túy dẫn tới tù tội. Chị và anh O đã sống ly thân với nhau từ năm 2014. Chị xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn, chấm dứt tình trạng hôn nhân hiện nay.

Về con chung: Qua thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung là Lò Thị D, sinh ngày 25/02/2010, khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu anh O phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về vay nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, do anh Lò Văn O đang phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam Yên Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, Tòa án đã tiến hành ủy thác lấy lời khai, tống đạt những tài liệu, thông báo của Tòa án cho anh O, anh O đã có bản tự khai và có đơn đề nghị yêu cầu Tòa án huyện Sông Mã xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng; Quá trình xét xử Hội đồng xét xử đã tuân theo quy định của pháp luật và các thủ tục. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật từ thời điểm thụ lý vụ án và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được tống đạt các thủ tục theo quy định và có đơn xin được xét xử vắng mặt. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị xử cho chị Lò Thị Xôm được ly hôn với anh Lò Văn Oan; Về con chung: giao con chung là cháu Lò Thị Diệp, sinh ngày 25/02/2010 cho chị Lò Thị Xôm được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục đến đủ 18 tuổi, anh Oan không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đã được xem xét thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền tố tụng: Nguyên đơn chị Lò Thị X và bị đơn anh Lò Văn O đều có hộ khẩu thường trú tại bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, do vậy Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La thụ lý, giải quyết là đảm bảo theo quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:

Đối với nguyên đơn: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đối với bị đơn: Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa do đang phải chấp hành án trong trại giam, đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Dó đó, Tòa án giải quyết theo thủ tục chung và quyết định đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị X và anh Lò Văn O kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mường Hung, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Căn cứ khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình xác định quan hệ hôn nhân của anh chị là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Qua các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy mâu thuẫn gia đình giữa chị X và anh O xuất phát từ việc vợ chồng không hợp tính cách, anh Oan nghiện ma tuý hiện đang phải chấp hành hành án phạt tù trong thời gian dài nên cuộc sống chung không đảm bảo, không thể cùng nhau vun vén, xây dựng cuộc sống gia đình. Bản thân chị X và anh O đều nhất trí và mong muốn được ly hôn. Xét mâu thuẫn đã kéo dài, tình cảm vợ chồng đã hết, mục đích của hôn nhân không đạt được, việc quyết định cho chị X ly hôn anh O là phù hợp với nguyện vọng của các bên đương sự, có căn cứ và phù hợp với các quy định tại Điều 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Tại các tài liệu có trong hồ sơ chị Lò Thị X đề nghị được trực tiếp nuôi con chung là cháu Lò Thị D, sinh ngày 25/02/2010, không yêu cầu anh O phải cấp dưỡng nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành ủy thác lấy lời khai của anh Lò Văn O, tại bản tự khai anh O cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Lò Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Mặt khác quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của cháu Lò Thị D, cháu D có nguyện vọng là được ở cùng mẹ, do vậy việc giao cháu Lò Thị D cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng đảm bảo theo nguyện vọng của chị X, anh O và cháu D.

Về việc cấp dưỡng nuôi con do chị X không yêu cầu nên anh O không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị X.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lò Thị X và anh Lò Văn O đều khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đặt vấn đề giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Chị Lò Thị X là nguyên đơn nên phải chịu toàn bộ án phí xin ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 55; 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lò Thị X đối với anh Lò Văn O.

Xử cho chị Lò Thị X được ly hôn với anh Lò Văn O.

2. Về con chung: Giao cháu Lò Thị D, sinh ngày 25/02/2010 cho chị Lò Thị X trực tiếp, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh Lò Văn O không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Lò Thị X. Anh O có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn đều khai nhận vợ chồng không có nợ chung, không có tài sản chung nên không đặt vấn đề giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Chị Lò Thị X phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lại số AA/2021/0000710, ngày 14 tháng 10 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã, Sơn La. Chị Lò Thị X đã nộp đủ án phí

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị X, anh Lò Văn O có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về