TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 74/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ XIN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2017 về “xin ly hôn có yếu tố nước ngoài”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2018/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Lư Thị Ngọc Q, sinh năm 1992 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
Tạm trú: đường A, phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: anh K. J. H. sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: (Hàn Quốc).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Chị Lư Thị Ngọc Q trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Năm 2014 chị và anh K. J. H. có quen biết nhau qua mạng xã hội, qua quá trình tìm hiểu đã tự nguyện tiến đến hôn nhân và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 17/3/2016. Sau khi kết hôn được 01 tháng thì anh K. J. H. trở về Hàn Quốc, vợ chồng liên lạc với nhau được thêm 01 tháng thì từ đó đến nay không còn liên lạc gì với nhau nữa.
Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh K. J. H.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh K. J. H. đã được Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp cho Cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc thực hiện việc tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về thời gian mở phiên họp hòa giải và phiên tòa nhưng cho đến nay phía anh K. J. H. không có văn bản phản hồi thể hiện ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Q.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Lư Thị Ngọc Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh K. J. H. được Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp cho Cơ quan có thẩm quyền của nước Hàn Quốc theo đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG- TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về quy trình, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Phía anh K. J. H. không có văn bản phản hồi thể hiện ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Q, cũng không có mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh K. J. H.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Q và anh K. J. H. đã tuân thủ đúng các điều kiện kết hôn, được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 17/3/2016, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định tại các Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Theo chị Q, nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do tìm hiểu nhau qua mạng xã hội được thời gian ngắn, khi kết hôn được 01 tháng thì anh K. J. H. trở về Hàn Quốc, vợ chồng liên lạc với nhau được thêm 01 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ngôn ngữ, quan điểm sống, không tìm được tiến nói chung và từ đó đến nay không còn liên lạc gì với nhau nữa. Chị Q nhận thấy vợ chồng không có quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không còn tình cảm nên chị quyết định xin ly hôn để mỗi người có cuộc sống riêng. Về phía anh K. J. H. mặc dù Tòa án đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp để tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về thời gian mở phiên họp hòa giải và phiên tòa đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Q nhưng cho đến nay anh K. J. H. cũng không có văn bản thể hiện ý kiến gửi về cho Tòa án. Xét thấy, hôn nhân giữa chị Q và anh K. J. H. không còn sự gắn kết, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được; hơn nữa hiện nay anh K. J. H. sống ở Hàn Quốc, còn chị Q sống tại Việt Nam, giữa vợ chồng không có bất cứ sự liên lạc nào với nhau nên không có khả năng đoàn tụ. Do đó, trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận ý kiến đề xuất của kiểm sát viên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Q, cho chị Q được ly hôn với anh K. J. H.
[3] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị Q xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Q phải chịu là 300.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[5] Về chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài:
Áp dụng khoản 3 Điều 153 Bộ luật Tố tụng dân sự, chị Q phải nộp chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài gồm lệ phí là 200.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp.
Hoàn trả lại cho chị Q tạm ứng chi phí thực tế ủy thác tư pháp đã nộp là 3.000.000 đồng theo hướng dẫn tại Công văn số 3378/BTP-PLQT ngày 10/9/2018 của Bộ Tư pháp về việc ủy thác tư pháp về dân sự đi một số nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, Điều 153, điểm d khoản 1 Điều 469, Điều 477, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lư Thị Ngọc Q.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lư Thị Ngọc Q và anh K. J. H.
2. Về con chung: Không có, không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
3. Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Q phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0009234 ngày 30/10/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
5. Về chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài:
- Chị Q phải chịu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 200.000 đồng tạm ứng lệ phí ủy thác tư pháp đã nộp theo lai thu số 0031011 ngày 30/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
- Chị Q được hoàn trả lại tạm ứng chi phí thực tế thực hiện ủy thác tư pháp ra nước ngoài 3.000.000 (Ba triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 07701 ngày 30/11/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Báo cho chị Q có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh K. J. H. có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án này được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về xin ly hôn có yếu tố nước ngoài số 74/2018/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 74/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về