Bản án về việc không công nhận vợ chồng số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG

BN ÁN 06/2022/HNGĐ NGÀY 28/04/2022 VỀ VIỆC KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG 

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 63/2022/TLST- HNGĐ, ngày 16 tháng 3 năm 2022, về việc “Không công nhận vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà La Thúy H, sinh năm 1976 - Có mặt. Địa chỉ: Thôn 08, xã C, huyện C, tỉnh Đăk Nông.

- Bị đơn: Ông Hoàng Công Ng, sinh năm 1972 - Có đơn xin xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 08, xã C, huyện C, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn trình bày: Bà La Thúy H chung sống với ông Hoàng Công Ng từ năm 1996 nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Việc chung sống với nhau hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống có 02 con chung là Hoàng Công V, sinh năm 1997 và Hoàng Công M, sinh năm 2003. Trong cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, ông Ng không tu chí làm ăn, bà và ông Ng thường xuyên xảy ra cãi vã, chửi mắng, xúc phạm nhau. Bà H với ông Ng đã ly thân với nhau hơn 01 năm nay. Vì vậy, bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án không công nhận vợ chồng giữa bà và ông Ng.

- Về con chung: Các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị đơn trình bày:  Ông Hoàng Công Ng chung sống với bà La Thúy H từ năm 1996 nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Quá trình chung sống có 02 con chung Hoàng Công V, sinh năm 1997 và Hoàng Công M, sinh năm 2003. Trong cuộc vợ chồng sống xảy ra một số mâu thuẫn như: Không hợp nhau, nhiều lần chửi mắng, xúc phạm nhau. Thực tế đã ly thân với nhau khoảng hơn 01 năm nay. Nay bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Các con đã trưởng thành, đã ra ở riêng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và không công nhận ông Hoàng Công Ng với bà La Thúy H là vợ chồng.

Về con chung và tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Không công nhận vợ chồng” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS. Các đương sự đều cư trú tại huyện Cư Jút. Vì vậy, tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà La Thúy H và ông Hoàng Công Ng chung sống với  nhau từ năm 1996 không có đăng ký kết hôn do đó cần giải quyết hậu quả theo khoản 1  Điều 14 Luật hôn nhân gia đình:

1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ   giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”  Bà H và ông Ng tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1996 đến nay mà không đăng ký kết hôn với nhau thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ vợ chồng nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ‘Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy đinh tại Điều 15 và Điều 16 Luật này”.

[3] Về con chung: Các con đã trưởng thành.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và phát biểu quan điểm về đường lối xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 143; Điều 147; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 51, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà La Thúy H và ông Hoàng Công Ng.

Về con chung: Các con đã trưởng thành.

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Tiền án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Buộc bà La Thúy H phải chịu toàn bộ, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông theo biên lai số  0003699 ngày 16/03/2022.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về việc không công nhận vợ chồng số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về