Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 31/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 25/05/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2021/TLST–HS ngày 09 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST–HS ngày 22 tháng 04 năm 2021, Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án hình sự số 90/TB-TA ngày 06 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:

Phm Thị G - Sinh ngày 19/07/2003 tại tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: học sinh; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: đang học lớp 12; con ông Phạm T và bà Phùng Thị G; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo gồm có:

+ Ông Phạm T, sinh năm 1959 (vắng mặt) và bà Phùng Thị G, sinh năm 1963 (cha, mẹ đẻ của bị cáo);

Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

+ Thầy giáo Trần Hoài T – Giám đốc Trung tâm Dạy nghề - Giáo dục thường xuyên - Hướng nghiệp tỉnh Quảng Ngãi (đại diện cho bị cáo, nơi bị cáo đang học tập).

Đa chỉ liên lạc: Số X đường V, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thúy - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi là người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị G; có mặt.

Bị hại: Ông Nguyễn Bá K, sinh năm 1951 (Chết) Nơi cư trú: thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Người đại diện hợp pháp cho bị hại:

+ Bà Vương Thị H sinh năm 1962 (vợ bị hại);

+ Anh Nguyễn Bá V, sinh năm 1984 (con bị hại); Đều cư trú: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

+ Chị Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1991 (con bị hại); Nơi cư trú: thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

Bà Vương Thị H và Chị Nguyễn Thị Kim L cùng ủy quyền cho anh Nguyễn Bá V tham gia tố tụng theo Văn bản ủy quyền ngày 28/10/2020 và ngày 20/4/2021. Anh V có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Vương Thị H, sinh năm 1962; Bà H ủy quyền cho anh Nguyễn Bá V tham gia tố tụng theo Văn bản ủy quyền ngày 28/10/2020.

Đều cư trú: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Anh V có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

+ Chị Phan Thị Kim L, sinh năm 1978;

Nơi cư trú: thôn P, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

Chỗ ở hiện nay: thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị G, sinh ngày 19/07/2003, ở tại thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi là học sinh của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ Dung Quất, có trụ sở tại thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, Phạm Thị G làm phục vụ thời vụ để kiếm thêm thu nhập tại quán nhậu Việt Hàn ở thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do chị Phan Thị Kim L, sinh năm 1978, ở tại thôn P, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi làm chủ.

Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 20/07/2020, Phạm Thị G đến quán Việt Hàn để phục vụ, đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, thấy xe mô tô biển kiểm soát 76C1- 4767X của chị Phan Thị Kim L có để chìa khóa trên xe và dựng gần đó (lúc này quán đang đông khách) nên Phạm Thị G tự ý lấy xe đi về ký túc xá Trường Cao đẳng Kỹ nghệ Dung Quất để lấy đồ. Khi đang lưu thông trên tuyến đường chính Khu đô thị V (hướng Tây - Đông) thuộc thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thì Phạm Thị G vượt xe mô tô đi phía trước cùng chiều nên chạy lấn qua phần đường dành cho xe lưu thông hướng ngược chiều dẫn đến va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 76Y1-872X do bị hại Nguyễn Bá K điều khiển lưu thông hướng Đông – Tây; hậu quả làm ông Nguyễn Bá K chết tại chỗ; Phạm Thị G bị thương tích; 02 xe mô tô hư hỏng.

Sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử thi và tiến hành một số hoạt động điều tra, kết quả như sau:

Khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ trên tuyến đường Khu đô thị V, thuộc thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Trục đường có phương Đông – Tây, lòng đường được trải nhựa tương đối bằng phẳng, đoạn đường này được chia thành hai phần đường, chính giữa có con lươn cố định, phần đường nơi xảy ra tai nạn rộng 14m (phần đường phía bắc), phần đường phía nam đang thi công chưa cho phương tiện lưu thông, đoạn đường nơi xảy ra tai nạn không có điện đường chiếu sáng, hai bên đường thông thoáng không bị che khuất tầm nhìn.

Chọn trụ cao áp số 65 phía Nam đoạn đường đang thi công của hiện trường làm mốc gọi là “vật mốc”.

Chọn mép đường phía Nam phần đường xảy ra tai nạn của hiện trường làm chuẩn gọi là “mép chuẩn”.

Cách vật mốc về hướng Tây Bắc 42m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,50m phát hiện đầu phía Tây dấu vết cày xước mặt đường thứ nhất ký hiệu V1, V1 có chiều hướng từ Tây sang Đông có kích thước (0,60x0,02)m, đầu phía Đông dấu vết V1 cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,48m.

Cách đầu phía Đông dấu vết V1 về hướng Đông 2,20m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,80m phát hiện đầu phía Tây dấu vết cày xước mặt đường không liên tục thứ 2 kí hiệu là V2; V2 có chiều hướng từ Tây sang Đông có kích thước (2x0,02)m, đầu phía Đông dấu vết V2 cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,15m.

Cách đầu phía Tây dấu vết V2 về hướng Đông 0,97m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 8,50 phát hiện đầu phía Tây dấu vết cày xước mặt đường thứ 3 được ký hiệu là V3, V3 có chiều hướng từ Tây sang Đông có kích thước (0,55x0,02)m đầu phía Đông dấu vết V3 cách mép chuẩn về hướng Bắc 8,48m.

Cách đầu phía Đông dấu vết V3 về hướng Đông 0,92m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 8,42m là tâm trục bánh xe trước xe mô tô biển kiểm soát 76Y1-872X, xe này đang trong tư thế nằm ngã nghiêng về bên phải, đầu xe quay về hướng Bắc, đuôi xe quay về hướng Nam.

Cách đầu phía Đông dấu vết V3 về hướng Đông 0,90m và cách mép chuẩn về phía Bắc 8,55m phát hiện đầu phía Tây dấu vết cày xước không liên tục trên mặt đường thứ năm ký hiệu V5, V5 có hình cong, lưng cung quay về phía Bắc có kích thước (1x0,02)m, đầu phía Đông dấu vết V5 cách mép chuẩn về hướng Bắc 8,17m.

Cách đầu phía Đông dấu vết V5 về hướng Đông 1,2m phát hiện dấu vết máu màu đỏ nâu trong diện kích thước (3,20x0,80)m, vết máy chảy quay về hướng Bắc và tâm vết máu cách mép đường phía Nam về hướng Bắc 9.73m.

Cách đầu phía Đông dấu vết V1 về hướng Đông 3,42m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 6,47m phát hiện đầu phía Tây dấu vết cày xước mặt đường không liên tục thứ tư được ký hiệu là V4, V4 có chiều hướng từ Tây sang Đông có kích thước (2,57x0,015)m, đầu phía Đông dấu vết V4 cách mép chuẩn về hướng Bắc 5,70m.

Tâm trục bánh xe sau xe mô tô biển kiểm soát 76Y1-872X cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,32m và cách tâm trục bánh xe trước xe mô tô biển kiểm soát 76C1-47.679 ở phía Đông về hướng Tây 1,85m.

Tâm trục bánh xe trước xe mô tô biển kiểm soát 76C1-47.67X cách mép chuẩn về hướng Bắc 6,66m và tâm trục bánh xe sau cách mép chuẩn về hướng Bắc 5,50m xe này đang trong tư thế nằm ngã nghiêng về bên trái, đầu xe quay về hướng Tây Bắc, đuôi xe quay về hướng Đông Nam.

Cách tâm trục bánh xe sau mô tô biển kiểm soát 76Y1 – 872X về hướng Đông 1m và cách mép chuẩn về hướng Bắc 7,60m là chân trái của nạn nhân nam, nạn nhân này đang trong tư thế nằm ngửa trên mặt đường; đầu nạn nhân quay về hướng Tây Nam và cách mép chuẩn về hướng Bắc 8,13m.

Tại hiện trường phát hiện một số mảnh nhựa màu đỏ, đen bị bể vỡ rơi vãi.

Khám nghiệm phương tiện:

Khám nghiệm xe mô tô biển kiểm soát 76Y1-872X:

Cụm đèn pha trước rơi khỏi xe, áp nhựa đèn pha bể vỡ kích thước (25x11)cm.

Mặt trước áp nhựa đèn xi nhanh trước bên trái bị trầy xước kích thước (7x5)cm có hướng từ phải qua trái.

Mảnh nhựa trang trí phía trước đầu xe bị bể vỡ kích thước (26x15)cm.

Áp nhựa phuộc nhún trước bên trái bị bể nứt kích thước (17x0,5)cm, bề mặt bị trầy xước và bám dính chất màu đỏ kích thước (20x10)cm có hướng từ trước ra sau.

Mép bên trái bánh xe trước mặt lăn tại vị trí cách chân vanh 32cm có vết rách cao su kích thước (2x1,5)cm, khu vực xung quanh dấu vết rách có vết sạch bụi kích thước (15x5)cm.

Mặt ngoài mép trước của May - ơ tại vị trí cùm thắng trước bên trái có vết chà sát sạch bụi có bám dính chất màu đen kích thước (11x5)cm, hướng mép trước trong vùng bể vỡ kích thước (6x0,5)cm.

Mặt trước ốc vặn đầu trục trước bên trái có vết sạch bụi và trầy xước kim loại trong vùng kích thước (2x0,5)cm.

Cánh yếm chắn gió bên trái bị bể vỡ hoàn toàn. Gát chân trước bên trái bị cong lệch về sau.

Mặt trước dưới và đầu gát chân sau bên trái bị chà xát cao su kích thước (6x3)cm.

Mép bên trái mặt lăn và má lốp bên trái bánh xe sau tại vị trí có chữ 75- 1741P có vết sạch bụi chà sát cao su kích thước (40x5) cm, bề mặt bám dính chất màu đỏ - trắng có hướng từ tâm trục ra mặt lăn.

Mép bên trái vành bánh xe sau tương ứng tại vị trí nói trên có vết trầy xước kim loại và bám dính chất lạ màu đỏ kích thước (0,5x4,5) cm.

Đầu ngoài cùng tay lái bên phải kim loại bị trầy xước kích thước (1,5x1,2)cm.

Đầu gát chân phải phía trước kim loại bị trầy xước kích thước (1,5x1)cm.

Mặt bên phải tay nâng có dấu vết chà xát, trầy xước cao su kích thước (9x5)cm có hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.

Tại vị trí công tắc đèn chiếu sáng cần gạt được đẩy về phía bên trái.

Khám nghiệm xe mô tô biển số 76C1-47.67X nhãn hiệu Vision:

Kính chiếu hậu bên trái phần kính bể vỡ, rơi khỏi vị trí ban đầu, cần kính bị đẩy lệch.

Mặt trước bên trái đèn pha và áp nhựa phía bên trái trước đầu xe có vết trầy xước bám dính chất màu đen kích thước (25x07)cm có hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái.

Mảnh nhựa trang trí phía trước đầu xe bị bể vỡ, rời khỏi vị trí ban đầu, góc dưới bên trái bị bể vỡ kích thước (23x5)cm. Bề mặt trầy xước và bám dính chất màu đen có hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái.

Đèn xi nhanh trước bên trái bị bể vỡ, rời khỏi vị trí ban đầu.

½ trước chắn bùn bánh xe trước mặt trước bên trái bị bể vỡ kích thước (35x12)cm. Bề mặt bị trầy xước bám dính chất màu đen hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái.

Mép bên trái vành bánh xe trước tại vị trí cách chân vanh 27cm theo chiều tiến của xe, mép vành bánh xe bị bể vỡ cong vênh theo hướng từ ngoài vào tâm trục kích thước (25x5)cm. Mép vành bánh xe ở khu vực này có bám dính nhiều chất lạ màu đen.

Mép bên trái mặt lăn và má lốp ở vị trí tương ứng với vị trí vành bánh xe bị bể vỡ có vết chà lốp sạch bụi.

Mặt trước ốc cố định đầu trục bánh xe trước bên trái có chất màu đen bám dính kích thước (3,5x2)cm mặt trước đầu trục này kim loại bị trầy xước khuyết kim loại kích thước (0,7x0,5)cm có hướng từ trước ra sau.

Cánh bửng bên trái bị bể vỡ rơi khỏi xe.

Đầu trước bệ gát chân trước bên trái bị bể vỡ nhựa và cong vênh áp kim loại có hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.

Mặt ngoài áp nhựa bên trái thân xe tại vị trí trước cách góc dưới trước về 14cm về phía trên và cách góc trước 6cm có vết chà sát và trầy xước sơn bám dính chất lạ màu đen kích thước (24x3)cm có hướng từ dưới lên trên từ trước ra sau, đến mép bên trái yên xe. Cách mép dưới về trên 3cm, cách góc trước về sau 6cm có vùng chà xát, trầy xước sơn có bám dính chất lạ màu đen và bụi đất trong vùng kích thước (34x14)cm có hướng từ dưới lên trên.

Mặt ngoài dưới đầu dưới chân chống bên và mặt ngoài dưới cần gạt chân chống giữa bị trầy xước kim loại kích thước (3x0,5)cm.

Kết luận giám định:

Kết luận nguyên nhân chết: Đa thương tích, chấn thương sọ não, rạn nứt xương hộp sọ, xuất huyết não dẫn đến chết.

Kết luận về điểm va chạm đầu tiên:

Điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện là bên trái bánh trước xe mô tô biển kiểm soát 76C1- 47.67X (tạo ra dấu vết chà xát sạch bụi ở mép bên trái mặt lăn, má lốp bên trái bánh trước và làm cho mép vành bánh trước bị bể vỡ, cong vênh theo hướng từ ngoài vào tâm trục) với bên trái may-ơ bánh trước xe mô tô 76Y1-8721 (tạo ra dấu vết chà xát sạch bụi, bám dính chất màu đen ở mặt ngoài mép trước bên trái may-ơ bánh trước và làm bể vỡ kim loại ở mép bên trái may-ơ tại vị trí cùm thắng trước).

Vị trí va chạm đầu tiên trên mặt đường giữa xe mô tô biển kiểm soát 76C1 – 4767X với xe mô tô biển kiểm soát 76 Y1 – 872X là khu vực phía Tây Bắc đầu dấu vết cày xước mặt đường V1, thuộc làn đường phía Bắc tuyến đường Khu đô thị V thuộc thôn A, xã B, huyện S.

Tại thời điểm xảy ra tai nạn, xe mô tô 76C1 – 4767X chuyển động theo hướng từ Tây sang Đông, xe mô tô 76Y1 – 872X chuyển động theo hướng từ Đông sang Tây.

Bản cáo trạng số: 15/CT-VKS-BS ngày 01/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn truy tố bị cáo Phạm Thị Gvề tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91; Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thị G từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Xe mô tô biển kiểm soát 76C1- 47.67X thuộc sở hữu của chị Phan Thị Kim L. Tuy nhiên, chị Phan Thị Kim L để chìa khóa trên xe thì Phạm Thị G tự ý mượn xe không hỏi ý kiến của chị L nên chị L không biết. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xử lý về trách nhiệm hình sự đối với chị L.

Về trách nhiệm dân sự:

Trong giai đoạn điều tra, gia đình bị cáo Phạm Thị G và đại diện cho bị hại đã tự nguyện thỏa thuận số tiền bồi thường là 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng) bao gồm các khoản chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và các khoản chi phí khác, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không có yêu cầu gì thêm; có đơn bãi nại và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về vật chứng vụ án:

Xe mô tô biển kiểm soát 76Y1 – 872X thuộc sở hữu của ông Nguyễn Bá K. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại đại diện gia đình của Nguyễn Bá Khanh; Xe mô tô biển kiểm soát 76C1-47.67X thuộc sở hữu của chị Phan Thị Kim L, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị L. Chị L và anh V đã nhận lại xe, không yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Ý kiến bào chữa của người bào chữa: Thng nhất với tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Riêng hình phạt đối với bị cáo: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, cha bị cáo bị bệnh nằm một chỗ không lao động được nên mẹ là lao động chính trong gia đình, các anh, chị của bị cáo kinh tế cũng khó khăn nên không phụ giúp được gì cho bị cáo nên bị cáo vừa đi học, vừa đi làm để có tiền thu nhập lo cho bản thân và việc học, khoản tiền bồi thường cho bị hại gia đình phải vay, mượn của nhiều người thân. Tính đến thời điểm xét xử bị cáo chưa đủ 18 tuổi, trình độ nhận thức còn hạn chế nên đã điều kiển phương tiện giao thông khi chưa đủ điều kiện. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục đi học, đi làm trả nợ khoản tiền bồi thường cho bị hại.

Ý kiến bào chữa, tranh luận của bị cáo: Bị cáo không bổ sung lời bào chữa của người bào chữa cũng như không có tranh luận về điều luật áp dụng, tội danh, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng khác:

Ý kiến của người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Phùng Thị G (mẹ ruột bị cáo) mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục đi học, đi làm trả nợ khoản tiền bồi thường cho bị hại.

Ý kiến của Thầy giáo Trần Hoài T tại đơn đề nghị giải quyết vắng mặt ngày 10/5/2021: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo G có điều kiện tiếp tục học và hoàn thành chương trình lớp 12 năm học 2020 - 2021.

Ý kiến của đại diện hợp pháp của bị hại: Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 25/5/2021 anh Nguyễn Bá V đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo G.

Ý kiến của chị Phan Thị Kim Loan: Chị là chủ quán nhậu Việt Hàn, trong quá trình kinh doanh chị có thuê bị cáo G làm việc bán thời gian ngoài giờ đi học (thời gian làm việc từ 17 giờ 00 phút đến 22 giờ 00), làm việc không có hợp đồng lao động, lương tính theo giờ làm việc; mục đích thuê nhằm tạo điều kiện cho bị cáo G có thêm thu nhập để phụ giúp gia đình. Bị cáo G là người siêng năng, chịu khó làm việc. Trong thời gian đi làm thì chị thấy bị cáo có sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Wave 110 cm3 nên nghĩ là bị cáo đã có giấy phép lái xe. Chị thường để chìa khóa trên xe mô tô biển kiểm soát 76C1-47.67X để tiện cho việc đi lại mua hàng khi cần thiết. Vào tối ngày 20/7/2020, bị cáo G tự ý lấy xe mô tô của chị sử dụng thì lúc đó quán đông khách và chị không biết việc bị cáo mượn xe, vì bị cáo không hỏi ý kiến chị. Chị yêu cầu không xem xét trách nhiệm của chị liên quan đến hậu quả do bị cáo gây ra và yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục theo học phổ thông và đi làm trả nợ khoản tiền bồi thường cho bị hại.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1. Về tố tụng:

[1.1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; người tham gia tố tụng khác cung cấp là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[1.2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị G khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 20/7/2020, Phạm Thị G đến quán nhậu Việt Hàn để làm thêm. Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày bị cáo cần đến Trường Cao đẳng Kỹ nghệ Dung Quất để lấy đồ dùng, lúc này bị cáo thấy xe mô tô biển kiểm soát 76C1- 47.67X của chị Phan Thị Kim L chủ quán Việt Hàn (nơi bị cáo đang phụ việc) có để chìa khóa trên xe nên bị cáo mượn tạm đi lấy đồ, khi sử dụng xe không hỏi ý kiến chị L. Khi đang lưu thông trên tuyến đường chính Khu đô thị V (hướng Tây - Đông) thuộc thôn A, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi, tuyến đường lúc này đang thi công phần đường phía bên phải (phần đường phía Nam) nên phương tiện chỉ được lưu thông bên phần đường phía bên trái (phần đường phía Bắc). Khi đang lưu thông, bị cáo phát hiện có xe mô tô chạy cùng chiều, do đi vội nên bị cáo đánh tay lái về phía bên trái (phía Bắc) và tăng tốc nhằm vượt xe mô tô đi cùng chiều phía trước và chạy lấn qua phần đường dành cho người và phương tiện lưu thông theo hướng ngược chiều dẫn đến va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 76Y1-872X do ông Nguyễn Bá K điều khiển lưu thông ngược chiều theo hướng từ Đông sang hướng Tây. Hậu quả, ông Nguyễn Bá K chết tại chỗ; bị cáo bị thương tích bất tỉnh tại hiện trường được mọi người xung quanh đưa đi cấp cứu.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa như trên hoàn toàn phù hợp với lời nhận tội của bị cáo, lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, vật chứng được thu giữ tại hiện trường và Kết luận giám định số: 535/KL-GĐ-PC09 ngày 24/7/2020 về nguyên nhân chết của bị hại Nguyễn Bá K; Kết luận giám định số: 647/KL-GĐ- PC09 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ngãi và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn truy tố là có căn cứ.

Tính đến ngày 20/7/2020, bị cáo Phạm Thị G mới 17 tuổi 01 ngày, chưa đủ tuổi để được học và cấp giấy phép lái xe dung tích trên 50cm3 nhưng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76C1 - 47.67X dung tích 108,2cm3, khi lái xe tham gia giao thông đã đi không đúng phần đường, vượt xe cùng chiều khi có chướng ngại vật là không đúng quy định đã gây tai nạn làm Nguyễn Bá K chết nên đã vi phạm khoản 2 Điều 14; khoản 1 Điều 58 và điểm a khoản 1 Điều 60 Luật Giao thông đường bộ.

Cụ thể:

Khon 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ quy định “Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước”.

Khon 1 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ quy định: “Điều kiện của người lái xe tham gia giao thông. 1. Người lái xe tham gia giao thông phải đủ độ tuổi, sức khỏe quy định tại Điều 60 của Luật này và có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”.

Điểm a khoản 1 Điều 60 Luật Giao thông đường bộ quy định: “Tuổi, sức khỏe của người lái xe. 1. Độ tuổi của người lái xe quy định như sau: a) Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3” Hành vi của bị cáo Phạm Thị G đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất hành vi phạm tội do bị cáo Phạm Thị G gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nhưng còn hạn chế, bị cáo nhận thức được không có giấy phép lái xe mà điều khiển mô tô là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện và quá trình tham gia giao thông đã không chấp hành đúng quy định về vượt xe, làn đường theo quy định của Luật giao thông đường bộ đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ là quy định về an toàn giao thông đường bộ, nguyên nhân bị hại chết là lỗi của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với Phạm Thị G để góp phần ổn định tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn huyện Bình Sơn nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nói chung, đồng thời giáo dục, răn đe đối với bị cáo Phạm Thị G.

[2.3] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường xong thiệt hại cho gia đình bị hại; người đại diện hợp pháp cho bị hại có đơn bãi nại và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo; thời điểm phạm tội bị cáo chỉ 17 tuổi 01 ngày nên Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo là người chưa thành niên (tại thời điểm xét xử bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi), có năng lực nhận thức pháp luật còn hạn chế; có nhiều tình tiết giảm nhẹ;

có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo đang theo học lớp 12 tại Trung tâm dạy nghề, giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp tỉnh Quảng Ngãi nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội nhằm cho bị cáo cơ hội rèn luyện, tu dưỡng bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phạm Thị G, gia đình bị cáo và đại diện cho bị hại đã tự nguyện thỏa thuận số tiền bồi thường là 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng) bao gồm các khoản chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, chi phí sửa xe mô tô biển kiểm soát 76Y1 – 872X và các khoản chi phí khác, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[2.5] Về xử lý vật chứng:

Xe mô tô biển kiểm soát 76Y1 – 872X, thuộc sở hữu của Nguyễn Bá K, xe mô tô biển số 76C1-4767X thuộc sở hữu của chị Phan Thị Kim L, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả các xe mô tô nói trên cho anh Nguyễn Bá V và chị Phan Thị Kim L; anh V, chị L không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3] Về các vấn đề khác:

[3.1] Xe mô tô biển kiểm soát 76C1- 4767X do bị cáo G điều kiển gây tai nạn chết người nhưng khi bị cáo sử dụng phương tiện thì bị cáo tự ý mượn, không hỏi ý kiến chị Phan Thị Kim L, chị L không biết nên hành vi của chị L không đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo Điều 264 Bộ luật hình sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự đối với chị L là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3.2] Tại phiên tòa, bị cáo xác định số tiền bồi thường cho gia đình bị hại là tài sản của cha, mẹ của bị cáo là bà ông Phạm T, bà Phùng Thị G (bị cáo tác động gia đình bồi thường). Bị cáo không có tài sản riêng nên ông T, bà G có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại xong nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Xét ý kiến bào chữa của người bào chữa: Ý kiến của người bào chữa đề nghị cho bị cáo được hưởng áo treo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận, về mức hình phạt không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[5] Xét ý kiến tranh luận của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người đại diện nơi bị cáo học tập, người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ý kiến của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người đại diện nơi bị cáo học tập, người đại diện hợp pháp cho bị hại phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì nên không xét.

[6] Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn: Về đề nghị áp dụng pháp luật, tội danh, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, nhân thân, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng như trên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Xét lời nói sau cùng của bị cáo: Yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí:

[8.1] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[8.2] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo đã bồi thường xong về phần trách nhiệm dân sự nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị cáo; người bào chữa; người đại diện hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị G phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Về hình phạt: Xử phạt Phạm Thị G 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm, kể tù ngày tuyên án (ngày 25/5/2021).

Giao bị cáo Phạm Thị G cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo Phạm Thị G có trách nhiệm phối hợp với UBND xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Cha, mẹ bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 12, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Thị G.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị cáo; người bào chữa có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/5/2021).

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú hoặc tại trụ sở nơi làm việc.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án đối với phần liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án (ngày 25/5/2021).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện theo ủy quyền của họ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án đối với phần liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

461
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về