Bản án về trộm cắp tài sản số 06/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 125/2020/TLST- HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:112/2020/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Mạnh C,sinh năm:1995;Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Thôn Phúc Xuyên, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Trình độ văn hoá: 12/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1966, Con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1966; Vợ, con: Chưa có; Tiền án;Tiền sự: Không. Bị cáo C bị tạm giữ từ ngày 25/08/2020, tạm giam từ ngày 03/09/2020 cho đến nay, tại Trại tam giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Ngọc B,sinh năm:1991;Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Thôn 1, xã S, huyện Ph, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Trình độ văn hoá: 07/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm: 1967, Con bà Kiều Thị Ng, sinh năm: 1973; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án; Tiền sự: Không. Bị cáo B bị tạm giữ từ ngày 30/08/2020, tạm giam từ ngày 02/09/2020 cho đến nay, tại Trại tam giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị hại: Bà Nguyễn Thị Kh, sinh năm: 1966; HKTT: Khu 4, thôn Thanh Lũng, xã T, huyện B, thành phố Hà Nội. (Bà Kh vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đào Tuấn A, sinh năm: 1995;

Địa chỉ: Thôn Bảo Lộc 2, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.

2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1966;

Địa chỉ: Thôn Phúc Xuyên, xã V, huyện Ph, thành phố Hà Nội.( Anh A vắng mặt; bà T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 23/08/2020, C và B rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô để bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, B lấy 1 bộ vam phá khoá hình chữ T ở gần chỗ máng nước thuộc dãy nhà ngang để làm công cụ phá khoá điện xe. Bộ vam phá khoá này là của B mua từ đầu tháng 8/2020 của một người không quen biết ở thị xã Sơn Tây, B mang về để ở nhà C. C lấy chiếc xe mô tô Honda Airblade, BKS: 20B1-651.37 của mẹ C là bà Nguyễn Thị T và chở B theo đường đê Sông Hồng đi về phía thị xã Sơn Tây. Khi đến khu vực cảng Sơn Tây, B và C bóc tem yếm xe mô tô dán vào số “0” ở biển kiểm soát của xe để che giấu. Sau đó, C rẽ vào dốc đi làng cổ Đường Lâm, khi đi qua nghĩa trang thôn Đông Sàng, cả 2 phát hiện 01 chiếc xe máy kiểu dáng Honda Dream dựng bên lề đường, không có ai trông giữ. B bảo C đi chậm lại để B xuống lấy chiếc xe nên C quay đầu xe và tiến lại gần chiếc xe kiểu dáng Dream. Tuy nhiên, do thấy chiếc xe đã cũ nát, ít giá trị nên B và C không lấy nữa. C tiếp tục chở B đi theo đường đê lên địa bàn huyện B để tìm kiếm tài sản trộm cắp. C và B đi theo đường liên thôn qua các xã Phú Châu, Đồng Thái, Vật Lại, TT Tây Đằng và đi vào xã T. Khi đến khu vực đường bê tông thuộc khu 4, thôn Thanh Lũng, xã T, cả 2 phát hiện chiếc xe máy Honda Dream BKS: 29V1-073.83 của bà Nguyễn Thị Kh đang dựng ở lề đường. B bảo C chở B đi qua chiếc xe khoảng 50 m để quan sát có ai hay không. Sau khi không thấy có người qua lại, không ai trông giữ chiếc xe, B nhảy xuống đi bộ đến chỗ chiếc xe và dùng vam chữ T phá khoá ổ điện của xe. Sau đó, B quay đầu xe và nổ máy để đi. Lúc này, bà Kh đang làm ở ruộng ngô phía trong phát hiện đã chạy ra đuổi theo và cầm tay vào đuôi xe giữ lại. Thấy vậy, B tăng ga bỏ chạy khiến bà Kh bị ngã xuống đường. B và C bỏ chạy thoát theo đường liên thôn đi ra quốc lộ 32 về xã V, huyện Ph. Do không đi cùng nhau nên B gọi điện thoại cho C bảo cho số điện thoại của Đoàn Tuấn A để B gọi điện thoại đặt vấn đề bán chiếc xe. Qua trao đổi, B nói với A có xe Dream tốt muốn bán thì A đồng ý mua và hẹn gặp nhau tại đường làng thôn Bảo Lộc 1 đi ra thôn Bảo Lộc 4 (gần đê Đại Hà) để xem xe. Trao đổi với A xong, B gọi điện thoại cho C hẹn gặp tại dốc đê Bảo Lộc và cùng đợi A đến. Tại đây, B đi theo A vào một ngõ nhỏ gần đó để giao dịch còn C đứng đợi bên ngoài. B nói với A xe của mình bị mất giấy tờ nên A đã đồng ý mua với giá 5.500.000đ. Số tiền trên, B đã sử dụng 300.000đ để mua lại chiếc điện thoại di động Iphone 5s của C đã bán cho người khác trước đây và đưa cho C. Số tiền còn lại, B và C chia đôi, mỗi người được 2.600.000đ. B đã tiêu sài hết số tiền được chia còn C cho mẹ là bà T số tiền 2.000.000đ và tiêu xài hết số tiền 600.000đ còn lại. Về phía A sau khi mua chiếc xe mô tô trên đã sử dụng đi xuống Hà Nội tìm việc làm nhưng không tìm được nên đã bán lại chiếc xe cho một người thanh niên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) với giá 5.500.000đ và tiêu xài hết.

Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã ra quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với chiếc xe mô tô bị chiếm đoạt. Tại Kết luận định giá số 88 ngày 27/08/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: chiếc xe mô tô Honda Dream BKS: 29V1-073.83 có trị giá: 20.000.000đ Ngoài hành vi trên, Nguyễn Ngọc B còn khai nhận: Khoảng ngày 6 hoặc 7/8/2020, B đã dùng bộ vam phá khoá điện và lấy trộm được 1 chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream (B không nhớ BKS) dựng tại khu vực nghĩa trang thôn Phú Thụ, xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Sau đó, B đem chiếc xe trên bán cho một người thu mua sắt vụn ở khu vực làng Bảo Lộc, xã V, huyện Ph, Hà Nội (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) với giá 700.000đ. Số tiền trên B đã tiêu xài hết. Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã xác minh công an xã Lại Thượng, đại diện thôn Phú Thụ và cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Thất. Kết quả xác minh thể hiện không có vụ trộm cắp xe nào vào thời điểm như B khai, cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Thất không tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm nào liên quan đến vụ việc như trên. Do đó, không đủ căn cứ xử lý đối với hành vi trộm cắp trên của B. CQĐT tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với Đoàn Tuấn A là người mua chiếc xe mô tô Honda Dream BKS:

29V1-073.83 do C và B trộm cắp được. Do A không biết nguồn gốc chiếc xe do phạm tội mà có nên CQĐT không xử lý trong vụ án.

Đối với bà Nguyễn Thị T là chủ sở hữu chiếc xe mô tô mà C và B sử dụng làm phương tiện khi đi trộm cắp. Mặc dù bà T được C cho 2.000.000đ từ tiền bán chiếc xe trộm cắp có được song bà T không biết nguồn gốc tiền và cũng không biết việc C, B sử dụng xe mô tô của mình để đi trộm cắp tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra, Công an huyện B không xử lý trong vụ án.

Đối với thương tích của bà Nguyễn Thị Kh, trong quá trình đuổi theo giữ chiếc xe bị B lấy trộm, bà Kh bị ngã dẫn đến thương tích song do vết thương nhẹ, không phải đi điều trị nên bà Kh chỉ yêu cầu bồi thường số tiền 800.000đ chi phí khám, chụp chiếu vết thương.

Về dân sự: Ngày 15/11/2020, gia đình B, C và A đã tự nguyện bồi thường cho bà Kh số tiền 23.000.000đ bao gồm trị giá chiếc xe bị chiếm đoạt và bồi thường thiệt hại về sức khoẻ. Bà Kh không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự. Đoàn Tuấn A không có yêu cầu gì về dân sự Về vật chứng đã tạm giữ gồm:

- 01 Mũ lưỡi trai nam màu xám; 01 Khẩu trang vải màu xanh đậm; 01 Áo phông dài tay màu đen, kích thước (60x46) cm, phía trước và sau áo có in biểu tượng hình con chim đại bàng; 01 Quần dài nam, chất liệu vải bò, màu xám, kích thước (1,07x0,38) mét; 01 Mũ lưỡi trai nam, màu xanh rêu, phần đỉnh mũ có kẻ sọc đen; 01 Đôi giầy da, màu xám, đế cao su màu trắng.

- 01 Đôi dép quai hậu, đế dép bằng cao su màu trắng, quai dép bằng vải màu đỏ-đen-trắng, cỡ dép 39, kích thước (27x10) cm, trong lòng dép có in dòng chữ "Bitis Hunter" màu đỏ, 01 áo sơ mi dài tay, màu nâu xám, cổ bẻ đính mảnh vải có dòng chữ "PHILIPP PLEIN" màu trắng, cỡ áo L, kích thước (55x65) cm.

- 01 Vam phá khóa hình chữ (T), dài 12 cm, bên ngoài bọc băng dính màu đen; 01 khớp nối hình trụ bằng kim loại, dài 03 cm; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 07 cm, một đầu dẹp, một đầu hình trụ; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 06 cm, một đầu dẹp, một đầu hình trụ.

- 01 Túi xách ba lô nhãn hiệu Nike, màu xanh bên trong có: 01 Quần bò nam, màu xanh đậm, kích thước (0,98x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh nhạt, kích thước (0,94x0,38) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,98x0,35) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,97x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh, kích thước (0,5x0,37) mét; 01 Quần đùi, màu đen, kích thước (0,46x0,32); 01 Áo phông cộc tay có cổ, màu đen, kích thước (0,57x0,6) mét, ngực áo bên trái có dòng chữ "BURBERRY"; 01 Quần lót màu xám nhạt, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Quần lót màu xám, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Thắt lưng, kích thước (1,03x0,35) mét.

- 01 Điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 013881002635629, lắp sim số: 098.208.6131.

- 01 xe máy đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda, số loại Blade, màu xám- đen, số khung: 362XEY013696, số máy: JA36E0049646, BKS: 20B1 - 651.37.

* Bản cáo trạng số:106/2020/CT-VKSBV ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát B đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, i, s khoản 1, Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 .Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C từ 12 tháng đến 15 tháng tù, Nguyễn Ngọc B từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về Dân sự các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B và gia đình đã tự nguyện bồi thường trị giá chiếc xe máy và sức khoẻ số tiền 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng) cho bà Nguyễn Thị Kh. Nay bị hại không yêu cầu gì thêm về phần dân sự do vậy không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B.

- 01 Mũ lưỡi trai nam màu xám; 01 Khẩu trang vải màu xanh đậm; 01 Áo phông dài tay màu đen, kích thước (60x46) cm, phía trước và sau áo có in biểu tượng hình con chim đại bàng; 01 Quần dài nam, chất liệu vải bò, màu xám, kích thước (1,07x0,38) mét; 01 Mũ lưỡi trai nam, màu xanh rêu, phần đỉnh mũ có kẻ sọc đen; 01 Đôi giầy da, màu xám, đế cao su màu trắng.

- 01 Đôi dép quai hậu, đế dép bằng cao su màu trắng, quai dép bằng vải màu đỏ-đen-trắng, cỡ dép 39, kích thước (27x10) cm, trong lòng dép có in dòng chữ "Bitis Hunter" màu đỏ, 01 áo sơ mi dài tay, màu nâu xám, cổ bẻ đính mảnh vải có dòng chữ "PHILIPP PLEIN" màu trắng, cỡ áo L, kích thước (55x65) cm.

- 01 Túi xách ba lô nhãn hiệu Nike, màu xanh bên trong có: 01 Quần bò nam, màu xanh đậm, kích thước (0,98x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh nhạt, kích thước (0,94x0,38) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,98x0,35) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,97x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh, kích thước (0,5x0,37) mét; 01 Quần đùi, màu đen, kích thước (0,46x0,32); 01 Áo phông cộc tay có cổ, màu đen, kích thước (0,57x0,6) mét, ngực áo bên trái có dòng chữ "BURBERRY"; 01 Quần lót màu xám nhạt, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Quần lót màu xám, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Thắt lưng, kích thước (1,03x0,35) mét.

Tuyên trả lại cho bà Nguyễn Thị T: 01 xe máy đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda, số loại Blade, màu xám-đen, số khung: 362XEY013696, số máy: JA36E0049646, BKS: 20B1 - 651.37.

Tịch thu sung công quỹ :- 01 Điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 013881002635629, lắp sim số: 098.208.6131.

Tịch thu tiêu hủy: 01 Vam phá khóa hình chữ (T), dài 12 cm, bên ngoài bọc băng dính màu đen; 01 khớp nối hình trụ bằng kim loại, dài 03 cm; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 07 cm, một đầu dẹp, một đầu hình trụ; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 06 cm, một đầu dẹp, một đầu hình trụ.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố vàtại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã nêu. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 23/08/2020, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô để bán lấy tiền tiêu sài, khi đến khu vực đường bê tông thuộc khu 4, thôn Thanh Lũng, xã T, thì phát hiện có chiếc xe máy để bên lề đường. B nhảy xuống đi bộ đến chỗ chiếc xe và dùng vam chữ T phá khoá ổ điện của chiếc xe máy Honda Dream BKS: 29V1-073.83 của bà Nguyễn Thị Kh rồi nổ máy phóng đi bà Kh phát hiện đuổi theo nắm đuôi xe để giữ lại thì bị B tăng ga phóng nhanh làm bà Kh tuột tay và ngã xuống đường. Chiếc xe trên có giá trị là 20 000 000đ. Hành vi của các bị cáo trong vụ án này đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Do vậy Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B về tội “Trộm cắp tài sản“ theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với Đoàn Tuấn A là người mua chiếc xe mô tô Honda Dream BKS: 29V1-073.83 do C và B trộm cắp được. Nhưng A không biết nguồn gốc chiếc xe do C và B trộm cắp được mà có nên CQĐT không đề cập xử lý trong vụ án này. Do vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.

Đối với bà Nguyễn Thị T là chủ sở hữu chiếc xe mô tô mà C và B sử dụng làm phương tiện khi đi trộm cắp, khi B và C lấy xe đi bà T không biết. Đối với số tiền 2.000.000đ C cho bà T từ việc bán chiếc xe trộm cắp mà có, bà T không biết nguồn gốc tiền do C, B trộm cắp nên Cơ quan điều tra, Công an huyện B không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà T trong vụ án này. Do vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.

Xét tính chất của vụ án: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, hành vi phạm tội của các bị cáo, coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử phải xem xét đánh giá vai trò, tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo để có mức án đúng và phù hợp với tính chất cũng như mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Trong vụ án có đồng phạm, do vậy Hội đồng xét xử phải đánh giá vai trò, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo. Các bị cáo phạm tội trong trường hợp có tổ chức nhưng giản đơn. Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc B chuẩn bị công cụ là chiếc vam chữ T khi thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy B là người trực tiếp thực hiện. Đối với bị cáo Nguyễn Mạnh C tham gia với vai trò đồng phạm nhưng giúp sức tính cực. C là người chuẩn bị phương tiện dùng xe mô tô của mẹ mình làm phương tiện trực tiếp điều khiển xe chở B đi trộm cắp tài sản. C và B cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Sau khi B bán được tài sản trộm cắp được thì C và B được ăn chia bằng nhau nên C và B giữ vai trò ngang nhau.

Xét tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhân thân và tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo mặc dù đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, nhưng hành vi thực hiện tội phạm là nguy hiểm khi bị hại đã phát hiện hai bị cáo trộm cắp tài sản lẽ ra các bị cáo phải dừng lại và nhận thấy hành vi sai trái của mình nhưng lại tăng ga, phóng nhanh làm người bị hại ngã xuống đường. Do vậy, cần thiết phải tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo Điều 38 BLHS để giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt.

Tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt bổ sung từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng; Hội đồng xét xử xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì các bị cáo không có công ăn việc làm, thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về dân sự: Các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B và gia đình đã tự nguyện bồi thường trị giá chiếc xe máy và sức khoẻ số tiền 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng) cho bà Nguyễn Thị Kh. Nay bị hại không yêu cầu gì thêm về phần dân sự đây là sự tự nguyện của hai bên nên HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Cần tịch thu để phát mại sung vào ngân sách nhà nước: 01 Điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 013881002635629,lắp sim số: 098.208.6131.

Cần tịch thu để tiêu hủy: 01 vam phá khóa hình chữ (T), dài 12 cm, bên ngoài bọc băng dính màu đen; 01 khớp nối hình trụ bằng kim loại, dài 03 cm; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 07 cm, một đầu dẹt, một đầu hình trụ; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 06 cm, một đầu dẹt, một đầu hình trụ. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B:

- 01 Mũ lưỡi trai nam màu xám, đã cũ; 01 Khẩu trang vải màu xanh đậm;

01 Áo phông dài tay màu đen, kích thước (60x46) cm, phía trước và sau áo có in biểu tượng hình con chim đại bàng; 01 Quần dài nam, chất liệu vải bò, màu xám, kích thước (1,07x0,38) mét; 01 Mũ lưỡi trai nam, màu xanh rêu, phần đỉnh mũ có kẻ sọc đen; 01 Đôi giầy da, màu xám, đế cao su màu trắng.

- 01 Đôi dép quai hậu, đế dép bằng cao su màu trắng, quai dép bằng vải màu đỏ-đen - trắng, cỡ dép 39, kích thước (27x10) cm, trong lòng dép có in dòng chữ "Bitis Hunter" màu đỏ, 01 áo sơ mi dài tay, màu nâu xám, cổ bẻ đính mảnh vải có dòng chữ "PHILIPP PLEIN" màu trắng, cỡ áo L, kích thước (55x65) cm.

- 01 Túi xách ba lô nhãn hiệu Nike, màu xanh bên trong có: 01 Quần bò nam, màu xanh đậm, kích thước (0,98x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh nhạt, kích thước (0,94x0,38) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,98x0,35) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,97x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh, kích thước (0,5x0,37) mét; 01 Quần đùi, màu đen, kích thước (0,46x0,32); 01 Áo phông cộc tay có cổ, màu đen, kích thước (0,57x0,6) mét, ngực áo bên trái có dòng chữ "BURBERRY"; 01 Quần lót màu xám nhạt, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Quần lót màu xám, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Thắt lưng, kích thước (1,03x0,35) mét.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị T: 01 xe máy đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda, số loại Blade, màu xám-đen, số khung: 362XEY013696, số máy: JA36E0049646, BKS: 20B1 - 651.37.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/. Xử : Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Mạnh C Nguyễn Ngọc B phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

2/ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc B: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 30/08/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25/08/2020.

3/ Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 3 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự.

Tịch thu để phát mại sung vào ngân sách nhà nước: 01 Điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 013881002635629, lắp sim số: 098.208.6131.

Tịch thu để tiêu hủy: 01 vam phá khóa hình chữ (T), dài 12 cm, bên ngoài bọc băng dính màu đen; 01 khớp nối hình trụ bằng kim loại, dài 03 cm; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 07 cm, một đầu dẹt, một đầu hình trụ; 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại, dài 06 cm, một đầu dẹt, một đầu hình trụ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B:

- 01 Mũ lưỡi trai nam màu xám, đã cũ; 01 Khẩu trang vải màu xanh đậm;

01 Áo phông dài tay màu đen, kích thước (60x46) cm, phía trước và sau áo có in biểu tượng hình con chim đại bàng; 01 Quần dài nam, chất liệu vải bò, màu xám, kích thước (1,07x0,38) mét; 01 Mũ lưỡi trai nam, màu xanh rêu, phần đỉnh mũ có kẻ sọc đen; 01 Đôi giầy da, màu xám, đế cao su màu trắng.

- 01 Đôi dép quai hậu, đế dép bằng cao su màu trắng, quai dép bằng vải màu đỏ-đen-trắng, cỡ dép 39, kích thước (27x10) cm, trong lòng dép có in dòng chữ "Bitis Hunter" màu đỏ, 01 áo sơ mi dài tay, màu nâu xám, cổ bẻ đính mảnh vải có dòng chữ "PHILIPP PLEIN" màu trắng, cỡ áo L, kích thước (55x65) cm.

- 01 Túi xách ba lô nhãn hiệu Nike, màu xanh bên trong có: 01 Quần bò nam, màu xanh đậm, kích thước (0,98x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh nhạt, kích thước (0,94x0,38) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,98x0,35) mét; 01 Quần bò nam, màu đen, kích thước (0,97x0,36) mét; 01 Quần bò nam, màu xanh, kích thước (0,5x0,37) mét; 01 Quần đùi, màu đen, kích thước (0,46x0,32); 01 Áo phông cộc tay có cổ, màu đen, kích thước (0,57x0,6) mét, ngực áo bên trái có dòng chữ "BURBERRY"; 01 Quần lót màu xám nhạt, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Quần lót màu xám, kích thước (0,25x0,3) mét; 01 Thắt lưng, kích thước (1,03x0,35) mét.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị T: 01 xe máy đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda, số loại Blade, màu xám-đen, số khung: 362XEY013696, số máy: JA36E0049646, BKS: 20B1 - 651.37. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện B và Chi cục thi hành án huyện B ngày 18/12/2020).

4/ Án phí : Áp dụng các Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Ngọc B phải nộp : 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt Bản án hợp lệ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án về phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án đối với phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ Bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hànhán dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hànhán, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại cácđiều 6,điều 7 và điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về trộm cắp tài sản số 06/2021/HS-ST

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về