Bản án 14/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L- TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2019/TLST-HS ngày 26-7-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-HS ngày 19-8-2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế Ng- Sinh ngày 08-10-1987 tại huyện L- tỉnh Yên Bái.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn T- xã L- huyện L- tỉnh Yên Bái. Chỗ ở: Tổ 6 thị trấn Y- huyện L- tỉnh Yên Bái.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Nguyễn Thế Th (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Tr hiện đang sinh sống tại thôn T- xã L- huyện L- tỉnh Yên Bái. Có vợ là chị Vũ Thị Minh H; bị cáo có một con sinh năm 2009. Vợ và con bị cáo hiện đang trú tại tổ 6 thị trấn Y- huyện L- tỉnh Yên Bái Tiền án: Ngày 25-12-2018 bị Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt ngày 19-6-2019, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái, có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Vương T, 35 tuổi Nơi cư trú: Tổ 11 thị trấn Y- huyện L- Yên Bái, vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác Người làm chứng: Anh Đỗ Trọng T Nơi cư trú: Tổ 13 thị trấn Y- huyện L- tỉnh Yên Bái, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 18-6-2019 Nguyễn Thế Ng điều khiển xe mô tô của vợ là chị Vũ Thị Minh H, BKS 21C1- 01688 từ nhà trọ tại tổ 6, thị trấn Y, huyện L, tỉnh Yên Bái đi theo đường ra khu tái định cư thuộc tổ 11, thị trấn Y, huyện L. Khi đi qua nhà xưởng đang xây dựng của anh Nguyễn Vương T thì phát hiện thấy 02 cuộn kim loại (loại lưới B40) để trong khu vực nhà xưởng không có ai quản lý, trông coi, Ngh nảy sinh ý định trộm cắp đem bán lấy tiền phục vụ nhu cầu cá nhân. Ngh vào trong xưởng bốc 02 cuộn lưới kim loại lên xe mô tô, lấy dây dù chằng lại rồi điều khiển xe chở xuống nhà cũ ở thôn T, xã L, huyện L cất giấu, sau đó điều khiển xe quay về chỗ ở trọ. Ngay sau khi phát hiện bị mất tài sản trên, anh T đã báo Cơ quan chức năng. Quá trình điều tra, xác minh, Nguyễn Thế Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vt chứng thu giữ: 01 xe mô tô BKS 21C1- 01688; 01 đoạn dây dù màu xanh; 02 chìa khóa; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Vũ Thị Minh H; 02 cuộn kim loại màu bạc (loại lưới B 40).

Ti bản Kết luận định giá tài sản số 11 ngày 19-6-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L- tỉnh Yên Bái đã kết luận: 02 cuộn kim loại màu bạc (Loại lưới B40) Nguyễn Thế Ng chiếm đoạt của anh Nguyễn Vương T với tổng trọng lượng 102 kg có giá trị là 2.040.000 đồng (Bút lục số 36a).

Ti bản cáo trạng số 13/CT-VKS-LY ngày 25-7-2019, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái đã truy tố Nguyễn Thế Ng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà, trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế Ng phạm tội “Trộn cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thế Ng từ 09 tháng đến 12 tháng tù;

Áp dụng khoản 2 điều 56, khoản 5 điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm Phán Tòa án nhân dân Tối Cao; tổng hợp hình phạt của lần phạm tội này với hình phạt tại bản án số 24/2019/HSST ngày 25-12-2018 của Tòa án nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung, đồng thời buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.

[2] Về tội danh và hình phạt: Qúa trình xét hỏi Nguyễn Thế Ng khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, Nguyễn Thế Ng đã lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Vương T 02 cuộn kim loại trị giá 2.040.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Mặc dù nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện nhằm kiếm tiền để thoả mãn nhu cầu cá nhân, do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thế Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Xét về nhân thân: Nguyễn Thế Ng là một đối tượng nghiện ma túy. Nghĩa cũng đã có một tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục vi phạm pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ: Hai cuộn kim loại Nghĩa chiếm đoạt của anh Nguyễn Vương T giá trị không cao và đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo được coi là gây thiệt hại không lớn; qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; những tình tiết này được quy định tại điểm h, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 25-12-2018 Nguyễn Thế Ng bị Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; vì chưa được xóa án tích nên với lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm”được quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy nên có 1 mức án tương xứng, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội 1 thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung. Do Nguyễn Thế Ng phạm tội mới trong thời gian thử thách nên cần phải tổng hợp hình phạt lần phạm tội này với phần hình phạt của bản án trước buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Nguyễn Vương T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt; người có quyền lợi liên quan là chị Vũ Thị Minh H cũng đã nhận lại chiếc xe mô tô bị cáo sử dụng vào việc phạm tội; quá trình điều tra không ai có yêu cầu gì thêm.

[4] Về vật chứng của vụ án: Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã trao trả cho anh Nguyễn Vương T 02 cuộn kim loại màu bạc (loại lưới B 40); trao trả cho chị Vũ Thị Minh H chiếc xe mô tô BKS 21C1- 01688; 01 đoạn dây dù màu xanh; 02 chìa khóa; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Vũ Thị Minh H (Bút lục số 95, 105).

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thế Ng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 điều 51;

đim h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Thế Ng 01 (Một) năm tù.

Căn cứ khoản 2 điều 56, khoản 5 điều 65 Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt của lần phạm tội này với phần hình phạt tại Bản án số 24/2018/HSST ngày 25-12- 2018 của Tòa án nhân dân huyện L- tỉnh Yên Bái, buộc Nguyễn Thế Ng phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai Bản án là 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 19-6- 2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3- Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc Nguyễn Thế Ng phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về