Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 71/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 71/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Ngày 29 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 824/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Chị Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1988 (có mặt).

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn : Anh Lương Tấn N, sinh năm 1987 (vắng mặt).

ĐKHKTT: ấp X, xã Y, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Phần trình bày của nguyên đơn :

Tại đơn khởi kiện ngày 14/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc T trình bày:

- Chị với anh Lương Tấn N cưới nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện C. Anh chị chung sống hạnh phúc thời gian đầu đến khoảng tháng 6/2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình. Do anh N không chăm lo làm ăn để lo cho gia đình mà gây nợ bên ngoài. Nên đã ly thân từ đó đến nay không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về tình cảm: Cho chị được ly hôn với anh Lương Tấn N.

- Về con chung: Anh chị có một con chung tên: Lương Tấn T, sinh ngày 31/12/2010. Khi ly hôn chị yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Phần trình bày của bị đơn:

Bị đơn anh Lương Tấn N dù được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của chị T và triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của anh cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

- Chị T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc hôn nhân của chị với anh Lương Tấn N. Anh N có địa chỉ tại ấp X, xã Y, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Đối với anh Lương Tấn Nịnh dù được Tòa án thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của chị T và được triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của anh, cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T. Do đó Hội đồng xé xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh anh N cưới nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện C. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2020 thì ly thân cho đến nay. Theo chị T khai là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xãy ra xung đột nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc do anh N không chăm làm ăn để lo gia đình vợ con mà gây nợ bên ngoài. Nên anh chị ly thân từ đó đến nay không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Nay chị không còn tình cảm vợ chồng với anh N nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

- Xét thấy chị T với anh N cưới nhau năm 2010 có đăng ký kết hôn nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống đến tháng 6/2020 thì ly thân, từ đó đến nay anh chị cũng không có biện pháp gì hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị T cương quyết ly hôn, còn anh N vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của chị T, xem như anh N từ bỏ việc bảo vệ quyền lợi cho anh. Nhận thấy mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T cho chị được ly hôn với anh N là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Anh chị có một người con chung tên Lương Tấn T, sinh ngày 31/12/2010. Khi ly hôn chị T yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Còn anh N không có ý kiến gì về nuôi con chung chưa thành niên. Nhận thấy từ khi ly thân đến nay chị T là người trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên cho đi học đã ổn định và phát triển bình thường. Mặt khác Lương Tấn T cũng có ý kiến là xin được sống với mẹ, nếu cha mẹ ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung chưa thành niên tên Trung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Do chị T không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặc ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh N không có ý kiến gì về tài sản. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

[3] Về án phí: Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng Thị Ngọc T.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần - Cho chị Trần Thị Ngọc T được ly hôn với anh Lương Tấn N.

2. Về con chung : Giao con chung chưa thành niên của anh chị tên Lương Tấn T, sinh ngày 31/12/2010 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh N được quyền thăm nom chăm sóc con chung sau ly hôn theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004577, ngày 24/12/2020 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T được quyền được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 71/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:71/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về