Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 155/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 155/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 410/2022/TLST-HN ngày 02 tháng 8 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh Ng, sinh năm 1998 Địa chỉ: T1, ấp NT, xã TY, thành phố HT, tỉnh Kiên Giang

2/. Bị đơn: Anh Ngô Minh Kh, sinh năm 1995 Địa chỉ: ấp TĐ, xã LĐĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị Ng có đơn xin vắng mặt, anh Kh có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/7/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh Ng và bị đơn anh Ngô Minh Kh thống nhất bày:

Về quan hệ hôn nhân: vợ chồng anh chị cưới nhau vào khoảng năm 2015, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TY, thành phố HT vào ngày 17/4/2019 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị Ng xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng sau đó một thời gian thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Lý do là do chồng chị không lo làm ăn, mà thường xuyên nhậu nhẹt, không lo lấng cho vợ con, vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống, nên thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng hơn 01 năm qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm gì với chồng chị, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Ngô Minh Kh.

Anh Kh xác định vợ chồng anh chị có xảy ra một số mâu thuẫn và đã sống ly thân hơn 01 năm nay, hiện tại anh cũng không còn tình cảm gì với chị Ng, tuy nhiên chị Ng yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Ng.

Về quan hệ con chung: Chị Ng và anh Kh thống nhất xác định vợ chồng anh chị có một người con chung tên. Từ lúc vợ chồng ly thân thì con sống cùng với chị Ng đến nay. Khi ly hôn chị Ng và anh Kh đều có yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Ng và anh Kh thống nhất xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị Ng và anh Kh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Ngô Minh Kh chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị Ng và anh Kh kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị Ng xác định chị không còn tình cảm với anh Kh và anh Kh cũng xác định không còn tình cảm với chị Ng. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị Ng và anh Kh nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Ng được ly hôn với anh Kh là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc chị Ng và anh Kh ly thân đến nay thì người con là Ngô Minh M, sinh ngày 24/10/2015 sống cùng với chị Ng đến nay. Chị Ng vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao người con là Ngô Minh M, sinh ngày 24/10/2015 cho chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị Ng và anh Kh không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị Ng phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Ng có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Kh. Anh Kh có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị Ng có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Ng.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị Ng và anh Kh kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã TY, thành phố HT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 17/4/2019 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Ng đối với anh Kh thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị Ng và anh Kh lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân hơn 01 năm qua. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Chị Ng và anh Kh đều xác định hiện tại anh chị không còn tình cảm gì với nhau, như vậy như vậy chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị Ng và anh Kh là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ng đối với anh Kh là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc chị Ng và anh Kh ly thân đến nay thì người con là Ngô Minh M, sinh ngày 24/10/2015 sống cùng với chị Ng đến nay. Chị Ng vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó, Hội đồng xét xử giao người con là Ngô Minh M, sinh ngày 24/10/2015 cho chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Anh Kh có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Nếu sau này anh Kh chứng minh được việc chị Ng nuôi con, nhưng không lo lắng chăm sóc tốt cho cuộc sống của con thì anh có quyền nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị Ng và anh Kh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 59, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thanh Ng; Xử cho chị Trần Thị Thanh Ng được ly hôn với anh Ngô Minh Kh.

2/. Về nuôi con chung: Giao người con tên Ngô Minh M, sinh ngày 24/10/2015 cho chị Trần Thị Thanh Ng được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh Ngô Minh Kh có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xet giải quyết.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Trần Thị Thanh Ng phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009430 ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho anh Ngô Minh Kh biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Trần Thị Thanh Ng được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 155/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:155/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về