Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 264/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXX-ST ngày 22 tháng 2 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ 2, ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trịnh Kha L, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ 2, ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn ngày 22-11-2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà và ông Trịnh Kha L qua quá trình tự tìm hiểu nhau nên bà cùng ông L đã tự nguyện đi đến hôn nhân vào năm 2008, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 20-5-2015 tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Hậu, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn bà và ông Lieel về chung sống tại ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, quá trình chung sống bà và ông L hạnh phúc nhưng khoảng từ tháng 5/2017, ông L không quan tâm đến vợ, con. Ông L thường xuyên nhậu nhẹt, cờ bạc, gây nợ nần, cuộc sống vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau, mặc dù bà đã nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Từ những mâu thuẫn đó nên bà và ông L đã sống ly thân kể từ năm 2021 đến nay. Nay nhận thấy bà không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng cùng ông L, bà T xin ly hôn với ông L.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khánh Đ, sinh ngày 06-2-2014, hiện đang sống cùng bà. Sau khi ly hôn bà có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trịnh Kha L Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông L để tham gia tố tụng nhưng ông vắng mặt không rỏ lý do, nên không tiếp nhận lời khai của ông L Tại phiên tòa:

Nguyên đơn: Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông L; yêu cầu về con chung; tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông L Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông L để tham gia tố tụng nhưng ông L có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về việc chấp hành pháp luật: Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tại Điều 70 BLTTDS. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt là vi phạm Điều 72 BLTTDS.

- Về ý kiến việc giải quyết vụ án: Do tự tìm hiểu nhau được một thời gian giữa bà Nguyễn Thị T và ông Trịnh Kha L tiến đến hôn nhân và có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hậu, huyện An Phú vào ngày 20-5-2015 nên được xem là quan hệ hôn nhân hợp pháp, sau khi kết hôn anh, chị về chung sống tại ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, trong thời gian chung sống rất hạnh phúc. Đến năm 2017, vợ chồng xảy ra mâu thuẩn nguyên nhân do ông L không quan tâm gia đình, thường xuyên cờ bạc, gây nợ nần mặc dù đã nhiều lần khuyên ngăn, nhưng ông L không quan tâm đến gia đình, thường xuyên cờ bạc, gây nợ nần mặc dù đã khuyên nhiều lần nhưng vẫn không thay đổi và đã ly thân từ năm 2021 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với ông L. Mặc khác, từ khi thụ lý cho đến nay ông L được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt là từ bỏ quyền lợi và nghĩa vụ của mình Căn cứ biên bản xác minh ngày 14-01-2022 được biết: Sau khi kết hôn bà T và ông L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang và hiện nay ông L đi làm ăn xa lâu lâu có về địa phương.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khánh Đ, sinh ngày 06-2-2014 hiện đang sống với bà T, đồng thời nguyện vọng của cháu Đăng là muốn sống với bà T, nên giao cháu Đăng cho bà T tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp, ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không xem xét giải quyết Từ những phân tích trên, đề nghị Tòa án xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá về vụ án như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Trịnh Kha L cư trú tại tổ 2, ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, quan hệ tranh chấp là quan hệ hôn nhân và gia đình là loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và theo quy định khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trịnh Kha L, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng ông L vắng mặt không rõ lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt đối với ông Trịnh Kha L.

[3] Về nội dung tranh chấp: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị T và ông Trịnh Kha L được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới vào năm 2008, có đăng ký kết hôn vào ngày 20-5-2015 theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên giữa ông và bà sau khi kết hôn chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân chính bà T cho rằng ông L không quan tâm chăm sóc gia đình, ông L thường xuyên nhậu nhẹt, mặc dù bà đã nhiều lần hàn gắn. Bà T và ông L đã ly thân với nhau từ năm 2021 đến nay. Nay bà T xin ly hôn ông L.

Quá trình tố tụng của Tòa án, cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Trịnh Kha L, nhằm đảm bảo quyền lợi của ông L theo quy định của pháp luật để ông L được trình bày ý kiến, nhưng ông L vẫn vắng mặt và ông có có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà T. Do vậy, Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Trịnh Kha L.

Tại biên bản xác minh ngày 14-01-2022 ban ấp Cây Gòn, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang xác định tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông L, xảy ra như thế nào ban ấp không biết rõ, nhưng hiện nay ông L đã bỏ địa phương và thỉnh thoảng có quay về.

Hội đồng xét xử nhận thấy Hôn nhân là nhằm giúp vợ chồng xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, nhưng do vợ chồng không có tiếng nói chung trong việc giải quyết cuộc sống gia đình, tuy nhiên giữa bà T và ông L không hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân, bất đồng quan điểm sống, giữa bà T và ông L không giành thời gian quan tâm chăm sóc gia đình, chia sẻ, động viên nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình, đã ly thân từ năm 2021 đến nay, nhưng từ khi ly thân đến nay hai bên cũng không gặp gỡ nhau nhằm hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Từ đó Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị T và ông Trịnh Kha L rơi vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu ly hôn với ông Trịnh Kha L là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khánh Đ, sinh ngày 06-2-2014, hiện đang sống cùng bà. Sau khi ly hôn bà có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng nhằm ghi nhận ý kiến ông L nhưng ông L vắng mặt không rỏ lý do. Tại phiên tòa bà T vẫn xin được nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử nhận thấy, từ khi bà T và ông L ly thân đến nay, bé Khánh Băng đều do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, bên cạnh đó nguyện vọng của cháu Khánh Băng là muốn được sống cùng mẹ bà T sau khi cha mẹ ly hôn. Do vậy, nhằm tạo điều kiện sự phát triển toàn diện các cháu, tránh xáo trộn đời sống tâm lý của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Nguyễn Khánh Đăng, sinh ngày 06-2-2014 cho bà Nguyễn Thị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Bà T khai không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà T khai không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà T là nguyên đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình, bà T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trịnh Kha L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 40/HT, ngày 20 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hậu, huyện An Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Khánh Đăng, sinh ngày 06-2-2014 cho bà Nguyễn Thị T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Trịnh Kha L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 0008052 ngày 01 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về