Bản án về tranh chấp xin ly hôn (bên chồng có hành vi ngăn cản quyền thăm con) số 87/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 181/2022/TLST-HN ngày 20 tháng 4 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Trương Phương Th, sinh năm 1996 Địa chỉ: ấp PX, thị trấn MD, huyện CT, tỉnh Hậu Giang

2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Nhật Tr, sinh năm 1994 Địa chỉ: ấp HI, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu

3/. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/. Ông Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1968

3.2/. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1970.

Địa chỉ: ấp HI, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu Hiện tạm trú: ấp 2, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị Th có mặt tại phiên tòa, ông Phòng, bà K có đơn xin vắng mặt, anh Tr vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/4/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Trương Phương Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Nguyễn Nhật Tr chung sống với nhau vào khoảng năm 2017, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn MD vào ngày 30/5/2018 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn tới ly hôn: thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc. Thời gian sau này vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do thời gian chung sống chồng chị không lo làm ăn, mà thường xuyên nhật nhẹt và nhiều lần đã hành hung đánh đập, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, tính tình không hợp… Vợ chồng anh chị ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2021 đến nay. Hiện tại chồng chị đã sống chung với người phụ nữ khác và đã có con chung với người đó. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, và chị cũng không tình cảm với chồng chị, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Nguyễn Nhật Tr.

Về nuôi con chung: vợ chồng anh chị chung sống với nhau có 02 người con chung gồm: Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 và Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020. Hiện nay người con tên Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 đang sống với chị, còn người con tên Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 đang sống với chồng chị (sống chung từ lúc hai vợ chồng ly thân). Lý do trước đây chồng chị có rước con về ấp Hòa I, xã Long Điền chơi, sau đó thì dịch Covid 19 bùng phát, nên việc đi lại bị hạn chế, chị không về rước con được. Sau khi dịch bệnh được kiềm chế phần nào thì thì có xuống rước con, nhưng chồng chị không cho rước. Nay ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cả hai người con, không yêu cầu chồng chị phải cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay thu nhập hàng tháng của chị khoảng 10.000.000đồng, thu nhập chủ yếu từ việc buôn bán nhỏ lẻ, bán mỹ phẩm, quần áo, nên chị xác định chị đủ điều kiện để nuôi con. Đồng thời hàng tháng gia đình cũng có hỗ trợ thêm cho chị để nuôi con được tốt.

Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: vợ chồng không có nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Nhật Tr: Mặc dù anh Tr đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Tr vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh Tr theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh Phong và bà Nguyễn Thị Kiều trình bày: Ông bà là cha mẹ ruột của anh Nguyễn Nhật Tr, còn chị Nguyễn Trương Phương Th là vợ của Tr, là dâu của ông bà.

Đối với việc mâu thuẫn dẫn đến ly hôn giữa chị Th và anh Tr thì ông bà không nắm rõ, nhưng ông bà có nghe Tr nói lại là do Th ngoại tình, nên vợ chồng mới ly thân với nhau, còn sự thật như thế nào thì ông bà không biết rõ. Hiện nay thì Tr cho có cho ông bà hay là Tr cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Th.

Đối với 02 đứa con của Th và Tr là Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 và Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020. Hiện nay người con tên Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 đang sống với Th, còn người con tên Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 đang sống với vợ chồng ông bà. Lý do vợ chồng ông bà nuôi cháu là do vợ chồng Th và Tr giao cho vợ chồng bà nuôi dùm, ông bà trực tiếp nuôi cháu từ tháng 10/2020 đến nay (lúc đó cháu mới có 08 tháng tuổi). Ông bà nuôi cháu đến nay cũng đã được 18 tháng, trong thời gian này Th không hề có đến thăm con.

Nay vợ chồng Tr và Th ly hôn, Th có yêu cầu nuôi người con là Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 thì ông bà yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông bà đã nuôi cháu được khoảng 18 tháng nay, vẫn lo lắng chăm sóc tốt cho cháu, nên ông bà mong Tòa án xem xét cho ông bà được tiếp tục nuôi. Trong Tr hợp ông bà không nuôi được nữa thì ông bà sẽ giao lại cho Tr nuôi, chớ không đồng ý giao lại cho Th nuôi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Nhật Tr chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị Th và anh Tr kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th được ly hôn với anh Tr là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao cả hai người con là Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 và Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 chị Th được nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đắt ra xem xét giải quyết. Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị Th và anh Tr không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân sơ thẩm thì chị Th phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Th có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Tr. Anh Tr có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Ông P và bà K có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông P và bà K.

Anh Tr đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Tr vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Tr.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị Th và anh Tr kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân thị trấn MD cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 30/5/2018 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Th đối với anh Tr thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị Th và anh Tr lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ khoảng tháng 4 năm 2021 đến nay. Trong thời gian qua cả hai anh chị mỗi người sống ở một nơi và đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị Th và anh Tr là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th đối với anh Tr là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị Th và anh Tr ly thân đến nay thì người con tên Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 là do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị Th vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Đối với người con tên Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020, tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì mới được 27 tháng tuổi. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tuổi phải được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Bé Nguyễn Nhật V hiện nay anh Tr không trực tiếp nuôi con mà để cho cha mẹ ruột là Phong và bà K nuôi. Tuy nhiên ông P và bà K đã có hành vi ngăn cản không cho chị Th thực hiện quyền thăm con, đã bị chính quyền địa phương lập biên bản vào ngày 20/4/2022 (BL 37). Do đó cần thiết phải buộc anh Tr, ông P và bà K giao lại bé Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 cho chị Th được nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Chị Th không yêu cầu anh Tr phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị Th và anh Tr không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận,

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Trương Phương Th; Xử cho chị Nguyễn Trương Phương Th được ly hôn với anh Nguyễn Nhật Tr.

2/. Về nuôi con chung: Giao cả hai người con là Nguyễn Nhật P, sinh ngày 05/01/2018 và Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 cho chị Nguyễn Trương Phương Th được nuôi dưỡng giáo dục.

Buộc anh Nguyễn Nhật Tr, ông Nguyễn Thanh P và bà Nguyễn Thị K phải có nghĩa vụ giao lại bé Nguyễn Nhật V, sinh ngày 31/3/2020 cho chị Nguyễn Trương Phương Th được nuôi dưỡng giáo dục.

Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Tr.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Nguyễn Trương Phương Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002240 ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

5/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Nguyễn Trương Phương Th biết được quyền kháng cáo trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Nhật Tr, ông Nguyễn Thanh Phong và bà Nguyễn Thị Kiều được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn (bên chồng có hành vi ngăn cản quyền thăm con) số 87/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:87/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về