Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 128/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 128/2022/DS-PT NGÀY 16/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 21/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 02 năm 2022 về: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2021/DS-ST ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1521/2022/QĐ-PT ngày 21 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm 1964; địa chỉ: Số 20 Đường N, thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Bị đơn:

+ Ông Phan Xuân C, sinh năm 1966. Có mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1965. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Số 18 Đường N, thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Q1, sinh năm 1963; địa chỉ: Số 20 Đường N, thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

2. Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Nam; địa chỉ: Số 02 đường T2, thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn B – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Q.Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người kháng cáo: nguyên đơn ông Phan Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các văn bản có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Phan Văn T trình bày:

Ngày 10/12/1988, gia đình ông được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp đất xây dựng cơ bản diện tích 150m2, sau đó tiến hành bọc móng và xây dựng một ngôi nhà tranh vách đất liền kề móng tường bên phải nhà ông Phan Xuân C. Đến năm 1994 ngôi nhà của ông bị sụp đổ, vợ chồng ông đều công tác ở xa không có tiền để xây lại nhà trên nền móng bọc năm 1988.

Năm 2000, ông Phan Xuân C là chủ sử dụng đất liền kề xây dựng tường rào lấn qua phía trước nền nhà của ông với diện tích lấn chiếm là 5,22m2 (rộng 0,9m x dài 5,8m). Ngày 19/5/2004, hộ ông Phan Xuân C được UBND huyện Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số U 809534, cấp chồng lên sơ đồ thửa đất gia đình ông được cấp vào ngày 10/12/1988 và thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông C thì ông không có ký tứ cận, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông. Năm 2009, ông C tiếp tục xây tường nhà dưới lấn qua nền sau nhà ông với diện tích lấn chiếm là 6,96m2 (rộng 0,6m x dài 11,6m). Qua hai lần ông C xây dựng (năm 2000 và năm 2009) đã lấn chiếm nền nhà của ông khoảng 12,18m2, qua đo đạc thực tế là 14,9m2.

Năm 2013, khi hòa giải tại Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Nam, ông C thừa nhận hành vi sai trái của mình, vì tình làng nghĩa xóm ông bỏ qua, rút đơn khởi kiện để Tòa án nhân dân huyện Q đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp đất nên mọi yêu cầu của gia đình ông chưa giải quyết dứt điểm. Năm 2018, bà Nguyễn Thị Tr (vợ ông Phan Xuân C) nhiều lần xô đổ tường tạm của ông giáp với cửa sổ nhà ông C xuống nền nhà, ông chất lên lại nhiều lần nhưng bà Tr vẫn tiếp tục xô ngã, dẫn đến phát sinh thêm những tranh chấp đất đai của ông với vợ chồng ông C, bà Tr.

Nay, nguyên đơn ông Phan Văn T khởi kiện yêu cầu ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr phải tháo dỡ, thu dọn phần vật liệu cứng (tường rào phía trước và tường nhà dưới đã xây chồng lên móng đá nền nhà của ông ở phía sau), để trả lại cho gia đình ông diện tích đất lấn chiếm qua đo đạc thực tế là 14,9m2 đất ở và hủy một phần GCNQSDĐ số U809534 do UBND huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, loại đất ở và đất vườn tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam đối với phần diện tích đất tranh chấp là 14,9m2. Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu khởi kiện nào khác.

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr trình bày:

Năm 1988, ông bà lập thủ tục xin và được UBND huyện Q cấp Quyết định về việc cấp đất xây dựng cơ bản số 118/QĐ/UB ngày 21/9/1988 với diện tích 160m2. Vào năm 1990, ông bà xây dựng một ngôi nhà cấp 4 để ở, trong lúc xây dựng ông bà có chừa một khoảng đất ở ranh giới phía bên nhà ông Phan Văn T khoảng 0,5m để bảo vệ xối nhà, đanh cửa sổ và để mở cửa sổ cho thoáng mát ngôi nhà. Vào ngày 14/9/2000, khi các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra hồ sơ và đo đạc để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP thì trong sơ đồ đã đo bao trùm phần đất của gia đình ông bà, không có phần đất của hộ ông Phan Văn T. Quá trình đo đạc có mời hai hộ đến kiểm tra và thống nhất thửa đất của gia đình ông bà có chiều ngang dọc theo đường ĐT611 là 12m, thửa đất của gia đình ông Phan Văn T là 12,5m, sau đó lập biên bản ký tên thống nhất xác định ranh giới giữa hai hộ. Ngày 19/5/2004, UBND huyện Q cấp GCNQSDĐ số U809534 cho gia đình ông bà với diện tích là 234m2 thuộc thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19 tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, gia đình ông bà tiếp tục xây dựng thêm hai phòng ngủ nối tiếp vào ngôi nhà.

Trong thời gian gần đây, ông Phan Văn T tranh chấp và gửi đơn đến UBND thị trấn Đ giải quyết nhưng không thành. Năm 2013, ông Phan Văn T làm đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Q, nhưng tại phiên tòa xét xử vụ án ngày 28/8/2013 ông Phan Văn T lại rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận. Sau đó, ông bà có làm đơn yêu cầu UBND thị trấn Đ đến kiểm tra thực địa việc sử dụng đất của 02 hộ thì xác định phần đất của gia đình ông T còn thừa, gia đình ông Phan Văn T được cấp đất sau và diện tích đất ít hơn gia đình ông bà nhưng diện tích đất sử dụng thực tế hiện nay nhiều hơn gia đình ông bà là không đúng.

Nay, ông Phan Văn T yêu cầu ông bà phải tháo dỡ, thu dọn tài sản để trả lại diện tích qua đo đạc thực tế là 14,9m2 đất lấn chiếm và hủy một phần GCNQSDĐ số U 809534 do UBND huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, đối với phần diện tích đất tranh chấp là 14,9m2 thì ông C và bà Tr không đồng ý. Ngoài ra, bị đơn không có yêu cầu hay ý kiến gì khác.

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Quang thống nhất như lời khai và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Nam trình bày:

Ngày 17/7/1988, ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr có đơn xin cấp đất làm nhà ở và đã được UBND huyện Q thống nhất cấp đất để xây dựng nhà ở tại Quyết định số 118/QĐ/UB, tại sơ đồ cấp đất xây dựng cơ bản số 118/QĐ ngày 21/9/1988, diện tích cấp: 160m2, địa điểm: Khu Trung tâm thị trấn Đ, huyện Q. Sau khi được UBND huyện Q cấp đất, hộ ông C bắt đầu xây dựng nhà ở ổn định từ năm 1988 đến nay.

Thực hiện Nghị định số 60/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị, ngày 14/9/2000 ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr có đơn xin đăng ký nhà ở và đất ở, đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất sử dụng ổn định tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, loại đất ở và đất vườn. Sau khi xem xét đề nghị của ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr, việc UBND huyện Q cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr đối với thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, loại đất: Đất ở 160m2, đất vườn: 74m2, thời hạn sử dụng lâu dài tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam là đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 1993.

Vì vậy, việc ông Phan Văn T yêu cầu hủy GCNQSDĐ số U809534 do UBND huyện Q cấp hộ cho ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 và buộc ông Phan Xuân C tháo dỡ phần vật liệu cứng (tường rào phía trước và tường nhà dưới đã xây chồng lên móng nền nhà của ông T ở phía sau), trả lại diện tích đất lấn chiếm cho gia đình ông T là không có cơ sở.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2021/DS-ST ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Căn cứ vào các Điều 26, 34, 37, 39, 147, 157, 165, 228 và 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T về yêu cầu buộc bị đơn ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr phải tháo dỡ, thu dọn phần vật liệu cứng (tường rào phía trước và tường nhà dưới đã xây chồng lên móng đá nền nhà của ông ở phía sau) để trả lại cho gia đình ông Phan Văn T diện tích 14,9m2 đất ở, có vị trí: Đông giáp đất ông Phan Xuân C, Tây giáp đất ông Phan Văn T, Nam giáp đường Đường N, Bắc giáp đất UBND thị trấn Đ quản lý (Có bản vẽ kèm theo) và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 809534 do Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, loại đất ở và đất vườn tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam đối với diện tích 14,9m2 đất ở.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/10/2021, nguyên đơn ông Phan Văn T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho gia đình ông.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Xét kháng cáo của ông Phan Văn T, nhận thấy:

[1.1]. Năm 1988, sau khi có đơn xin cấp đất làm nhà ở, ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr được UBND huyện Q cấp diện tích đất 160m2 để xây dựng nhà ở tại Quyết định số 118/QĐ/UB ngày 21/9/1988 và ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị Q1 được UBND huyện Q cấp diện tích đất 150m2 để xây dựng nhà ở tại Quyết định số 210/QĐ/UB ngày 10/12/1988, địa điểm: Khu Trung tâm thị trấn Đ, huyện Q.

[1.2]. Tại GCNQSD đất số BD 851814 ngày 29/01/2011, UBND huyện Q cấp cho vợ chồng ông Phan Văn T có diện tích 215,5m2, thuộc thửa số 652, tờ bản đồ số 19. Theo sơ đồ kèm theo GCNQSD đất thì chiều rộng mặt đường Đường N là 12,22m.

Tại GCNQSD đất số U 809534 ngày 19/5/2004, UBND huyện Q cấp cho vợ chồng ông Phan Xuân C có diện tích 234m2, thuộc thửa số 250, tờ bản đồ số 19. Theo sơ đồ kèm theo GCNQSD đất thì chiều rộng mặt đường Đường N là 11,60m.

Tại Biên bản giải quyết tranh chấp đất đai giữa vợ chồng ông Phan Văn T và vợ chồng ông Phan Xuân C ngày 22/3/2013, do UBND thị trấn Đ lập; trong đó hai bên thống nhất theo ranh giới hiện trạng đã xác định trong biên bản ngày 14/3/2013; biên bản xác định: “Theo GCNQSD đất của vợ chồng ông Phan Văn T, chiều rộng mặt tiền: 12,22m, thực tế đo đạt 12,4m (tăng 0,18m). Theo GCNQSD đất của vợ chồng ông Phan Xuân C, chiều rộng mặt tiền: 11,60m, thực tế đo đạt 11,40m (giảm 0,2m).

[1.3]. Tại Trích đo địa chính ngày 16/7/2013 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Quê Sơn thực hiện (kèm theo Biên bản xem xét và định giá tài sản ngày 25/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Q), xác định hiện trạng thửa đất số 652, tờ bản đồ số 19 do ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị Q1 quản lý, sử dụng có diện tích 355m2, biến động tăng so với diện tích được cấp GCNQSDĐ ngày 29/01/2011 là 139,5m2; cạnh tiếp giáp với đường Đường N là 13,39m (tăng 1,17m so với GCNQSDĐ đã cấp). Hiện trạng thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19 do ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr quản lý, sử dụng có diện tích 309,5m2, biến động tăng so với diện tích được cấp GCNQSDĐ ngày 19/5/2004 là 75,5m2; cạnh tiếp giáp với đường Đường N là 10,57m (thiếu 1,03m so với GCNQSDĐ đã cấp).

Tại Công văn số 979/UBND-NC ngày 14/9/2020 của UBND huyện Q, thể hiện nguyên nhân chênh lệch thừa 139,5m2 so với GCNQSDĐ đã cấp của hộ ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị Q1 là do trích đo phần diện tích đất hành lang an toàn giao thông đường Đường N nhưng thực tế phần diện tích đất hành lang giao thông do Nhà nước quản lý, do sai số trong quá trình đo đạc và xác định ranh giới chưa chính xác trong quá trình đo đạc cấp GCNQSDĐ. Nguyên nhân chênh lệch thừa 75,5m2 so với GCNQSDĐ đã cấp của ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr là do sai số trong quá trình đo đạc và xác định ranh giới chưa chính xác trong quá trình đo đạc cấp GCNQSDĐ. Đồng thời, xác định diện tích đất tranh chấp giữa ông Phan Văn T và ông Phan Xuân C qua xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc xác định là 14,9m2. Diện tích đất tranh chấp thuộc ranh giới giữa hai thửa đất số 250 và 652, tờ bản đồ số 19, diện tích tranh chấp nhỏ, có hình thể phức tạp nên không thể xác định được phần diện tích đất tranh chấp đó thuộc thửa nào.

Như vậy, không có căn cứ để xác định hộ ông Phan Xuân C lấn chiếm đất của hộ ông Phan Văn T với diện tích 14,9m2 (liền kề) đã xây dựng tường nhà, tường rào.

[1.4]. Đối với yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ số U 809534 do UBND huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2 tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam đối với diện tích tranh chấp 14,9m2 thì thấy:

Việc UBND huyện Q cấp GCNQSDĐ ngày 19/5/2004 cho hộ ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr trên cơ sở đơn xin đăng ký nhà ở và đất ở, đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất sử dụng ổn định tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, trong đó gồm 160m2 đất ở và 74m2 đất vườn tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam của ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr khi thực hiện Nghị định số 60/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị là đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 1993. Hơn nữa, như phân tích ở trên, không có căn cứ để xác định phần diện tích đất tranh chấp 14,9m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hộ ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị Q1, nên án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ.

Ông Phan Văn T kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên ông Phan Văn T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T về yêu cầu buộc bị đơn ông Phan Xuân C và bà Nguyễn Thị Tr phải tháo dỡ, thu dọn phần vật liệu cứng (tường rào phía trước và tường nhà dưới đã xây chồng lên móng đá nền nhà của ông ở phía sau) để trả lại cho gia đình ông Phan Văn T diện tích 14,9m2 đất ở, có vị trí: Đông giáp đất ông Phan Xuân C, Tây giáp đất ông Phan Văn T, Nam giáp đường Đường N, Bắc giáp đất UBND thị trấn Đ quản lý (Có bản vẽ kèm theo) và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 809534 do Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Phan Xuân C, bà Nguyễn Thị Tr ngày 19/5/2004 tại thửa đất số 250, tờ bản đồ số 19, diện tích 234m2, loại đất ở và đất vườn tại thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Quảng Nam đối với diện tích 14,9m2 đất ở.

2. Các quyết định khác về án phí dân sự sơ thẩm; chi phí tố tụng được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2021/DS-ST ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

3. Về án phí phúc thẩm: ông Phan Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp đủ tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000050 ngày 07/12/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 128/2022/DS-PT

Số hiệu:128/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về