TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 846/2023/DS-PT NGÀY 18/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 18 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 581/2023/TLPT-DS ngày 06 tháng 10 năm 2023 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2023/DS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3126/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Trúc Ph, sinh năm 1967; có mặt.
2. Ông Nguyễn Thuận T, sinh năm 1986; vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Bích Tr, sinh năm 1988; vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Phương Đ, sinh năm 1990; vắng mặt.
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông T, bà Tr, bà Đ: Bà Nguyễn Thị Trúc Ph, sinh năm 1967; theo văn bản ủy quyền ngày 08/3/2021; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Võ Quang Th là Luật sư của Văn phòng luật sư Võ Q Thuận thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Gi; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Phù Thị Ch, sinh năm 1972; vắng mặt.
Địa chỉ cư trú: Tổ 2, ấp 4, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Ch: Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1974; theo Văn bản ủy quyền ngày 09/4/2021; có mặt.
2. Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1974; có mặt.
Địa chỉ cư trú: Tổ 2, ấp 4, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang;
Địa chỉ: Số 04 đường 30/4, k p 1, phường Dương Đ, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Quang H; chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Văn Đ; chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang; theo Văn bản uỷ quyền ngày 06/4/2023; vắng mặt.
2. Bà Phù Ngọc Ng, sinh năm 1992; vắng mặt.
Địa chỉ cư trú: Ấp Lê B, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang; địa chỉ liên hệ: Ấp 3, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Phù Ngọc Ng: Bà Nguyễn Thị Trúc Ph, sinh năm 1967; có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Trúc Ph là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà Nguyễn Thị Trúc Ph và các con đang quản lý, sử dụng 12.214,2m2 toạ lạc tại ấp 3, xã Cửa C, huyện Phú Q, tỉnh Kiên Giang theo Bản trích đo địa chính thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 13. Ngày 20/8/2003, gia đình bà Ph được Ủy ban nhân dân huyện Phú Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 3.000m2 đất thuộc một phần thửa đất nêu trên. Sau đó, gia đình bà Ph làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích 9.214,2m2 đất còn lại nhưng không được chấp thuận do thửa đất giáp ranh với thửa đất của gia đình bà là của vợ chồng bà Phù Thị Ch, ông Nguyễn Ngọc Th chồng lên thửa đất của gia đình bà với diện tích 250,5m2. Vì vậy, bà Ph và các con khởi kiện yêu cầu: (1) Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538, thửa đất số 2, tờ bản đồ số 13, diện tích 7.962m2, do Ủy ban nhân dân huyện Phú Q cấp ngày 09/12/2008 do bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th đứng tên; (2) Yêu cầu công nhận diện tích 250,5m2 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538, thửa đất số 2, tờ bản đồ số 13, diện tích 7.962m2 tọa lạc tại ấp 3, xã Cửa C, huyện Phú Q, tỉnh Kiên Giang do Ủy ban nhân dân huyện Phú Q cấp cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th vào ngày 09/12/2008 để gia đình bà Ph làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất còn lại.
Bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Trúc Ph, đồng thời có yêu cầu phản tố đề nghị công nhận diện tích đất 250,5m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538 do Ủy ban nhân dân huyện Phú Q (nay là thành phố Phú Q) cấp ngày 09/12/2008; (2) buộc bà Nguyễn Thị Trúc Ph, ông Nguyễn Thuận T, bà Nguyễn Thị Bích Tr, bà Nguyễn Thị Phương Đ phải di dời cây trồng trên đất, giao trả diện tích đất tranh chấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 30/6/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết định (tóm tắt):
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trúc Ph, anh Nguyễn Thuận Th, chị Nguyễn Thị Bích Tr, chị Nguyễn Thị Phương Đ.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc Th và bà Phù Thị Ch: Công nhận cho bị đơn bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th được quyền sử dụng diện tích đất 150,7m2 tọa lạc tại Ấp 3, xã Cửa C, Tp Phú Q, tỉnh Kiên Giang. Buộc bà Nguyễn Thị Trúc Ph, ông Nguyễn Thuận T, bà Nguyễn Thị Bích Tr, bà Nguyễn Thị Phương Đ và bà Phù Ngọc Ng di dời toàn bộ cây trồng trên đất và các tài sản phát sinh (nếu có) giao trả diện tích đất và chấm dứt hành vi cản trở sử dụng đất của ông Nguyễn Ngọc Th và bà Phù Thị Ch.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 03/7/2023, bà Nguyễn Thị Trúc Ph kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Trúc Ph thay đổi yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại với lý do diện tích đất tranh chấp thuộc phần diện tích 3000m2 đất mà gia đình bà Ph đã được Ủy ban nhân dân huyện Phú Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng vào ngày 20 tháng 8 năm 2003; toàn bộ diện tích đất này đã được gia đình bà Ph thế chấp vay tiền tại Ngân hàng; khi xét xử Tòa án không đưa Ngân hàng tham gia tố tụng là thiếu sót.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Trúc Ph trình bày: Diện tích đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là 150,7m2 tọa lạc tại Ấp 3, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang hiện nay do gia đình bà Nguyễn Thị Trúc Ph sử dụng trồng tiêu. Nguồn gốc đất do gia đình bà Ph khai khẩn từ những năm 1988, việc bị đơn cho rằng đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của mình là không có căn cứ. Hơn nữa, phần diện tích đất tranh chấp thực chất thuộc diện tích 3000m2 đất gia đình bà Ph đã được cấp giấy chứng nhận vào ngày 20 tháng 8 năm 2003; bà Ph đã sử dụng đất này để thế chấp tại Ngân hàng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đất tranh chấp thuộc phần diện tích bà Ph chưa được cấp giấy chứng nhận là không đúng thực tế dẫn tới không đưa Ngân hàng tham gia tố tụng là có thiếu sót. Vi phạm này của Tòa án cấp sơ thẩm thuộc trường hợp nghiêm trọng nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
Ông Nguyễn Ngọc Th trình bày: Ông không đồng ý với trình bày của bà Nguyễn Thị Trúc Ph và Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Ph vì phần diện tích đất này thuộc giấy chứng nhận đã cấp cho vợ chồng ông từ rất lâu; khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông thì bà Ph cũng đã ký giáp ranh và cam kết không tranh chấp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th được thực hiện đúng quy định pháp luật; hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Cửa C về hiện trạng sử dụng đất có ranh giới rõ ràng và không có tranh chấp; sau khi bà Ch và ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình bà Ph không có ai khiếu nại hay tranh chấp. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời chấp nhận phản tố của bị đơn là có căn cứ, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Trúc Ph nộp trong thời hạn, đúng pháp luật nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự và người đại diện hợp pháp của các đương sự vắng mặt nhưng thuộc trường hợp đã có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Xét nội dung kháng cáo của đương sự như sau:
[4.1] Căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang; Tờ trích đo số: 49 – 2021 ngày 28/4/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang thể hiện: Đất các bên đương sự tranh chấp có diện tích 250,5m2 (đo đạc thực tế là 150,7m2) là một phần của diện tích 7.962m2 đất thuộc thửa đất số 2 tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại Ấp 3, xã Cửa C, huyện Phú Q, tỉnh Kiên Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538 do Ủy ban nhân dân huyện Phú Q, tỉnh Kiên Gi cấp cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th vào ngày 09/12/2008.
[4.2] Hồ sơ vụ án thể hiện: Diện tích 7.962m2 nêu trên có nguồn gốc của ông Nguyễn Hữu Ngh cho vợ chồng người con trai là ông Nguyễn Ngọc Th vào năm 1989 để trồng tiêu; vào khoảng năm 2005, 2006, Đoàn đo đạc thực hiện công tác đo đạc lại đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thì vợ chồng ông Th cùng cha là ông Nguyễn Hữu Ngh có đi cùng; thời điểm này, bà Ph đã yêu cầu ông Nghĩa và vợ chồng ông Th nhường con đường vào đất của vợ chồng bà Ph, nên mọi người đồng ý và vợ chồng bà Ph đã ký giáp ranh để ông Th và bà Ch được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo Ủy ban nhân dân thành phố Phú Q xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th được thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật định; hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Cửa C xác định hiện trạng sử dụng đất có ranh giới rõ ràng và không có tranh chấp; sau khi bà Ch, ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình bà Ph không có ai khiếu nại hay tranh chấp. Do đó, có cơ sở xác định bà Ch và ông Th là chủ sử dụng hợp pháp đối với toàn bộ diện tích đất trên, trong đó có diện tích đất tranh chấp. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất tranh chấp nêu trên là không có cơ sở.
[4.3] Do xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th nên yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng đất, buộc bị đơn trả lại đất và chấm dứt hành vi cản trở việc sử dụng đất trái pháp luật là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như đã nêu ở tiểu mục [4.1] và [4.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Trúc Ph trình bày trên đất tranh chấp hiện nay có trồng tiêu nhưng những bụi tiêu này đã chết, ngoài ra không còn có tài sản khác trên đất. Vì vậy, việc di dời cây trồng và tài sản trên đất để trả lại đất cho bà Ch, ông Th là có thể thực hiện được mà không ảnh hưởng tới quyền lợi của bà Ph.
[4.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Trúc Ph và Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Ph trình bày: Diện tích đất tranh chấp thực chất thuộc phần diện tích 3000m2 mà bà Ph đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng vào năm 2003 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định giáp với phần diện tích còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không chính xác. Hội đồng xét xử xét thấy trình bày của bà Ph tại phiên tòa phúc thẩm mâu thuẫn với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm khi cho rằng diện tích đất tranh chấp thuộc một phần diện tích đất 9.214,2m2 đất còn lại và do có tranh chấp nên bà Ph không được Ủy ban nhân dân thành phố Phú Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, không có căn cứ xác định đất tranh chấp thuộc một phần thửa đất bà Ph đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2003 như lời trình bày của bà Ph và quan điểm của Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Ph tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.
[5] Với các căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận; quan điểm của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Trúc Ph không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Trúc Ph phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Trúc Ph và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
- Áp dụng: Điều 163, Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Trúc Ph, ông Nguyễn Thuận T, bà Nguyễn Thị Bích Tr, ông Nguyễn Thị Phương Đ về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538, thửa đất số 2, tờ bản đồ số 13, diện tích 7.962m2, do Uỷ ban nhân dân huyện Phú Q cấp ngày 09 tháng 12 năm 2008 do bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th đứng tên.
2. Công nhận diện tích 250,5m2 (đo dạc thực tế 150,7m2) nằm trong diện tích 7.962m2 đất đã được Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 757538 cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th ngày 09 tháng 12 năm 2008 đối với thửa đất số 2, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp 3, xã Cửa C, huyện Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Ngọc Th và bà Phù Thị Ch: Công nhận quyền sử dụng diện tích 150,7m2 đất tọa lạc tại Ấp 3, xã Cửa C, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang cho bà Phù Thị Ch và ông Nguyễn Ngọc Th.
4. Buộc các ông bà Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thuận T, Nguyễn Thị Bích Tr, Nguyễn Thị Phương Đ và bà Phù Ngọc Ng di dời toàn bộ cây trồng trên đất theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và các tài sản phát sinh (nếu có) giao trả diện tích đất và chấm dứt hành vi cản trở ông Nguyễn Ngọc Th và bà Phù Thị Ch sử dụng đất.
Diện tích đất xác định theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang và Tờ trích đo số: 49 – 2021 ngày 28 tháng 4 năm 2021 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang có số đo cụ thể:
+ Cạnh 12 – 11 = 1,54m; 11 – 10 = 35,27m; 10 – 9 = 11,39m; 9 – 8 = 33,34m: Giáp phần đất ông Nguyễn Ngọc Th không tranh chấp;
+ Cạnh 8 – 13 = 47,08m: Giáp đường hiện trạng;
+ Cạnh 13 – 12 = 37,75m: Giáp đất bà Nguyễn Thị Trúc Ph.
5. Về chi phí thu thập tài liệu, chứng cứ: Buộc các ông, bà Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thuận T, Nguyễn Thị Bích Tr, Nguyễn Thị Phương Đ phải chịu chi phí thu thập tài liệu, chứng cứ với số tiền là 250.000 đồng theo Biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0007630 ngày 07 tháng 12 năm 2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang. Các nguyên đơn đã nộp đủ.
6. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc các ông, bà Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thuận T, Nguyễn Thị Bích Tr, Nguyễn Thị Phương Đ phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ với số tiền là 1.116.000 đồng theo hóa đơn giá trị gia tăng số 0000926 ngày 28 tháng 6 năm 2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang. Các nguyên đơn đã nộp đủ.
7. Về chi phí định giá tài sản: Buộc các ông, bà Nguyễn Thị Trúc Ph, ông Nguyễn Thuận T, bà Nguyễn Thị Bích Tr, bà Nguyễn Thị Phương Đ phải chịu chi phí định giá tài sản với số tiền là 5.000.000 đồng theo hóa đơn giá trị gia tăng số 00000020 ngày 15 tháng 3 năm 2023 của Công ty TNHH định giá Thịnh V. Các nguyên đơn đã nộp đủ.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị Trúc Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0009483 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Ông Nguyễn Thuận T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0009485 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Bà Nguyễn Thị Bích Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0009484 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Bà Nguyễn Thị Phương Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0009482 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Hoàn trả cho bà Phù Thị Ch, ông Nguyễn Ngọc Th số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 600.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0008386 ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
9. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Trúc Ph phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0001351 ngày 03 tháng 7 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
10. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 846/2023/DS-PT
Số hiệu: | 846/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về