Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 546/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 546/2023/DS-PT NGÀY 15/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 15 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 311/2023/TLPT-DS ngày 01 tháng 6 năm 2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1954/2023/QĐPT-DS ngày 31 tháng 7 năm 2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1946; Địa chỉ: số 95/3, Ô 6, khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (có mặt).

- Bị đơn: Bà Phan Thị H (chết ngày 24/12/2021);

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn:

1. Bà Lê Thị Ánh H1, sinh năm 1964; Địa chỉ: số 38/20 Liên khu 89, phường Bình Hưng H A, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bà Lê Thị Hồng H, sinh năm 1971; Địa chỉ: số 04/297 đường Thủ Khoa H, phường Thuận Gi, thành phố Thuận A, tỉnh Bình Dương (có mặt).

3. Bà Lê Thị Hoài D, sinh năm 1972 (vắng mặt);

4. Bà Lê Thị Hoài M, sinh năm 1972 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: số 1203 Calle Oriente APT 2 Milpitas, CA 95035-3714 USA.

Người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị Hoài D, Lê Thị Hoài M: Bà Lê Thị Hồng Q, sinh năm 1976 (được ủy quyền theo Hợp đồng ủy quyền ngày 07/9/2022) (có mặt).

5. Bà Lê Thị Hồng Q, sinh năm 1976; Địa chỉ: căn hộ B18.09, Tòa nhà Diamond Riverside, số 1646A Võ Văn K, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

6. Ông Lê Vinh Q, sinh năm 1979; Địa chỉ: số 95/1 tỉnh lộ 10, Ô 6 khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (vắng mặt).

7. Bà Lê Thúy A, sinh năm 1980; Địa chỉ: số 177/26/12, đường Lũy Bán B, phường Hiệp T, quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

8. Ông Lê Quang V, sinh năm 1970; Địa chỉ: Ô 6, khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1977; Địa chỉ: số 95/5, Ô 6, khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (có mặt).

2. Bà Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1980; Địa chỉ: 95/5, Ô 6, khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (có mặt).

3. Ông Nguyễn Thanh V, sinh năm 1984; Địa chỉ: số 95/3, Ô 6, khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Châu Văn H4, sinh năm 1962; Địa chỉ: ấp Hốc Th 1, xã Hòa Khánh T, huyện Đức H, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn M là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16 tháng 9 năm 2019, đơn bổ sung xác định lại yêu cầu khởi kiện ngày 06 tháng 9 năm 2022 và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn M trình bày:

Ông M là chủ sử dụng thửa đất số 339 tờ bản đồ số 15, tọa lạc tại khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An (gọi tắt là thửa đất số 339). Nguồn gốc thửa đất này do ông nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Mãi vào năm 1984, khi chuyển nhượng có lập giấy tay nhưng giấy tay đã thất lạc hiện nay không còn, ông Mãi cũng đã chết. Ông được Ủy ban nhân dân huyện Đức H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 074805 ngày 13/8/2003 đối với thửa đất số 339 với diện tích 319m2.

Giáp ranh với thửa đất số 339 của ông là thửa đất số 340, tờ bản đồ số 15 do bà Phan Thị H đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ranh giới giữa thửa đất 339 và 340 được xác định bằng hàng rào kẽm gai B40, khi ông nhận chuyển nhượng đất của ông Mãi giữa hai thửa đất đã có hàng rào kẽm gai sẵn.

Khoảng năm 2012, bà H đã tự ý nhổ hàng rào và xây dựng hàng rào lấn sang phần đất của ông. Ông có ngăn cản nhưng bà H vẫn xây dựng, ông có yêu cầu bà H tháo dỡ hàng rào trả đất lấn chiếm lại cho ông nhưng bà H không đồng ý. Ông có khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thị trấn Hậu Ngh, Ủy ban nhân dân có tiến hành hòa giải nhưng không thành. Ông khởi kiện yêu cầu bà H tháo dỡ hàng rào trả lại đất cho ông diện tích khoảng 8m2 (0.3m x 25m). Sau khi Tòa án trưng cầu cơ quan chuyên môn đo vẽ, theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 586-2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa ngày 26/11/2020 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 thì ông xác định phần diện tích đất tranh chấp yêu cầu bà H tháo dỡ hàng rào trả đất là 9,5m2 tại vị trí khu A thuộc thửa 339 của ông. Đối với khu B bà H xây dựng hàng rào thuộc đất do Nhà nước quản lý nên ông không có tranh chấp với bà H. Hiện nay, bà H đã chết nên ông yêu cầu những người thừa kế của bà H gồm các con của bà H thực hiện nghĩa vụ này.

Trong biên bản ghi nhận ý kiến của các đương sự ngày 18 tháng 01 năm 2021, trong biên bản Hòa giải ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, bị đơn bà Phan Thị H do bà Lê Thúy A đại diện, sau khi bà H chết, bà Lê Thúy A là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H trình bày:

Quyền sử dụng thửa đất số 340 tờ bản đồ số 15 là của vợ chồng bà Phan Thị H và ông Lê Hoàng Tâm nhận chuyển nhượng của ông Sử vào năm 1972, giấy tờ chuyển nhượng đất hiện nay không còn. Bà H được Ủy ban nhân dân huyện Đức H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 1928 QSDĐ/ 0707LA vào ngày 21/8/2003. Năm 2009, ông Tâm chết, bà H và ông Tâm có tất cả là 11 người con, đã chết 3 người con lúc còn nhỏ, còn lại 8 người con gồm: Lê Thị Ánh H1, Lê Quang V, Lê Thị Hồng H, Lê Thị Hoài D, Lê Thị Hoài M, Lê Thị Hồng Q, Lê Vinh Q và Lê Thúy A. Quá trình kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà H trực tiếp làm, các con không biết. Hiện nay nhà đất tại thửa 340 do các con của bà H cùng sử dụng, nhà hiện đóng cửa không có ai trực tiếp sử dụng.

Giáp ranh với thửa đất của bà H là thửa 339 của ông M. Ranh giới giữa hai thửa đất là hàng rào kẽm gai và trụ xi măng. Hàng rào này do bà H và ông Tâm xây dựng bao quanh đất vào năm 1972 sau khi nhận đất chuyển nhượng của ông Sử.

Vào khoảng năm 2010-2011, bà H xây dựng lại hàng rào như hiện trạng hiện nay. Khi xây hàng rào bà H có mời vợ chồng ông M và các con ông M chứng kiến và có kéo dây đo để chỉ ranh cho thợ xây dựng. Bà H xây dựng hàng rào trên nền móng hàng rào cũ, hoàn toàn không có di dời vị trí, lấn chiếm đất như ông M trình bày.

Trước yêu cầu khởi kiện của ông M thì bà H không đồng ý. Do bà H không có lấn chiếm đất của ông M.

Ngày 24/12/2021 bà H chết, Tòa án nhân dân huyện Đức H đưa các con của bà H tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn. Trong số 8 người con của bà H thì có hai người con là Lê Thị Hoài D và Lê Thị Hoài M đang định cư tại Hoa Kỳ từ năm 2000 nên Tòa án nhân dân huyện Đức H đã ra quyết định chuyển vụ án cho Tòa án tỉnh Long An giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 17 tháng 5 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý vụ án.

Trong biên bản hòa giải ngày 07 tháng 9 năm 2022, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm bà Lê Thị Ánh H1, bà Lê Thị Hồng H, bà Lê Thị Hồng Q, ông Lê Vinh Q, ông Lê Quang V, bà Lê Thị Hoài D, bà Lê Thị Hoài M thống nhất trình bày:

Các ông bà là con của bà Phan Thị H, thống nhất với lời trình bày của bà Lê Thúy A về mối quan hệ huyết thống, anh chị em, nguồn gốc và quá trình sử dụng đất. Các ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông M.

Trong biên bản làm việc ngày 03/01/2023, ngày 06/01/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Thành L, bà Nguyễn Thanh Th, ông Nguyễn Thanh V trình bày:

Các ông bà là con ruột của ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị Việt Tiếng, bà Tiếng chết năm 2022. Ông M và bà Tiếng có tất cả 03 người con gồm Nguyễn Thanh Th, Nguyễn Thành L, Nguyễn Thanh V, ngoài ra không có người con ruột, con nuôi nào khác.

Nguồn gốc thửa đất số 339, tờ bản đồ số 15, tọa lạc tại khu B, thị trấn Hậu Ngh, huyện Đức H, tỉnh Long An là tài sản chung của ông M bà Tiếng, ông L và bà Th đã được chia quyền sử dụng đất riêng, chỉ có ông V đang sống cùng nhà với ông M. Tại Văn bản thỏa thuận ngày 29/5/2013, các con của ông M, bà Tiếng thống nhất để ông M đứng tên quyền sử dụng thửa đất thửa 339. Ông M được toàn quyền định đoạt đối với thửa đất này, các ông bà không có tranh chấp hay yêu cầu gì đối với thửa đất này. Gia đình ông M hiện nay không còn giữ Văn bản thỏa thuận số 75/2013 quyển số 01/2013/CTCK do Ủy ban nhân dân thị trấn Hậu Ngh chứng thực ngày 29/5/2013.

Trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông M và bà Phan Thị H thì ông L, bà Th, ông V đồng ý để ông M đứng ra khởi kiện, toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án. Các ông bà không có tranh chấp gì, cũng không có yêu cầu gì trong vụ án này. Các ông bà không yêu cầu Tòa án tiến hành Hòa giải lại với sự có mặt của các ông bà.

Vụ án được Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:

Căn cứ vào các Điều 5, 26, 35, 37, 74, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 175 Bộ luật dân sự; Điều 166, Điều 203 Luật đất đai 2013; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp quyền sử dụng 9,5m2 đất tại vị trí khu A trong Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 ngày 26/11/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 của nguyên đơn ông Nguyễn Văn M đối với bị đơn bà Phan Thị H do những người thừa kế của bà H kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm bà Lê Thị Ánh H1, bà Lê Thị Hồng H, bà Lê Thị Hoài D, bà Lê Thị Hoài M, bà Lê Thị Hồng Q, ông Lê Vinh Q, bà Lê Thúy A, ông Lê Quang V.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần các chi phí tố tụng, về án phí, các quy định về thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/3/2023 nguyên đơn ông Nguyễn Văn M làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn M: Vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu các đồng thừa kế của bà H là các con của bà H tháo dỡ tường rào trả lại quyền sử dụng 9,5m2 đất cho ông M.

Khi bà H xây dựng hàng rào, thời gian đó do ông M đang nằm điều trị bệnh tại bệnh viện. Khi xuất viện về thì ông M có kêu bà H nói chuyện vấn đề xây hàng rào đã lấn sang phần đất thửa 339 của ông M, nhưng phía bà H không đồng ý. Ông M xác định phía gia đình bà H đã xây hàng rào lấn sang phần đất 339 của ông M. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông M, sửa án sơ thẩm.

- Bị đơn các đồng thừa kế của bà Phan Thị H trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm vì cho rằng, gia đình bà H không lấn đất của ông M, việc sử dụng đất là đúng ranh giới từ trước đến nay.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành L, bà Nguyễn Thanh Th, ông Nguyễn Thanh V cũng đồng ý để ông M đứng ra khởi kiện, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc chấp hành pháp luật: Xét thấy, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử phúc thẩm.

Về yêu cầu kháng cáo của đương sự: Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp quyền sử dụng 9,5m2 đất tại vị trí khu A trong Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 ngày 26/11/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 của nguyên đơn ông Nguyễn Văn M đối với bị đơn bà Phan Thị H do những người thừa kế của bà H kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm bà Lê Thị Ánh H1, bà Lê Thị Hồng H, bà Lê Thị Hoài D, bà Lê Thị Hoài M, bà Lê Thị Hồng Q, ông Lê Vinh Q, bà Lê Thúy A, ông Lê Quang V là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn M, giữ y bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn M khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Phan Thị H. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì bà H chết, Tòa án đưa những người thừa kế của bà H vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H, trong đó hai con của bà H là Lê Thị Hoài D và Lê Thị Hoài M đang định cư tại Hoa Kỳ. Vụ án được Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn:

Theo Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 ngày 26/11/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 và Phụ lục của Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa cung cấp ngày 28/11/2022 thì trong 9,5m2 đất tranh chấp có 7,5m2 đất thuộc một phần thửa 340 thuộc quyền sử dụng của bà H và 2m2 đất thuộc một phần thửa 339 thuộc quyền sử dụng của ông M.

Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 2462 QSDĐ/3756 do Ủy ban nhân dân huyện Đức H cấp cho hộ ông Nguyễn Văn M ngày 13/8/2004, ngày 29/5/2013 điều chỉnh cấp cho ông Nguyễn Văn M thì ông M được cấp 319m2 đất thuộc thửa 339 tờ bản đồ số 15, ngày 17/6/2008 ông M đã lập hợp đồng chuyển quyền sử dụng 138m2 đất thuộc một phần thửa 339 cho Nguyễn Thanh Th và Nguyễn Thành L, diện tích đất còn lại là 181m2. Đối chiếu với Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 thì diện tích đất của ông M thực tế còn lại là 191,3m2, như vậy diện tích đất thực tế của ông M sử dụng dôi dư 10,3m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông M được cấp.

Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 413656 ngày 21/8/2003 do Ủy ban nhân dân huyện Đức H cấp cho bà Phan Thị H vào ngày 21/8/2003 thì bà H được cấp 1289m2 đất thuộc thửa 340. Đối chiếu với Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 thì diện tích đất của bà H thực tế sử dụng là 1251,1m2; như vậy diện tích đất thực tế của bà H sử dụng thiếu 37,9m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà H được cấp.

Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đức H tại Văn bản số 9369/UBND-NC ngày 30/8/2022 thì khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M và bà H chỉ căn cứ vào Trích lục bản đồ địa chính do Phòng Nông nghiệp Địa chính lập và kiểm duyệt, không tiến hành đo đạc, ký giáp ranh giữa các bên, vì vậy cũng không thể căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ông M cho rằng khi ông M nhận chuyển nhượng phần diện tích đất thuộc thửa 339 của ông Nguyễn Văn Mãi vào năm 1984 thì giữa phần đất của ông M và đất của bà H có ranh giới là hàng rào bằng kẽm gai B40. Năm 2012, bà H đã tự ý nhổ hàng rào lưới B40 và xây dựng hàng rào kiên cố lấn sang đất của ông M. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy rằng, khi bà H tháo dỡ hàng rào tạm xây dựng hàng rào kiên cố thì phía ông M hoàn toàn không có ý kiến phản đối, theo lời khai của ông Châu Văn H4 là người xây dựng hàng rào cho bà H thì khi tiến hành xây dựng, ông M có chỉ mốc xây dựng, giữa ông M và bà H có thương lượng ranh giới để xây dựng, đến năm 2018 ông M mới tranh chấp và được Ủy ban nhân dân thị trấn Hậu Ngh giải quyết tranh chấp bằng biên bản ngày 27/12/2018 và ngày 25/7/2019. Mặt khác, trong toàn bộ quyền sử dụng đất tranh chấp thì có 7,5m2 đất thuộc một phần thửa 340 của bà H theo ranh bản đồ, không thuộc quyền sử dụng đất của ông M.

Với những căn cứ nêu trên, không có cơ sở xác định có việc lấn ranh giới quyền sử dụng đất của bà H. Do vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp quyền sử dụng 9,5m2 đất tại vị trí khu A trong Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 ngày 26/11/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 của nguyên đơn ông Nguyễn Văn M đối với bị đơn bà Phan Thị H do những người thừa kế của bà H kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm bà Lê Thị Ánh H1, bà Lê Thị Hồng H, bà Lê Thị Hoài D, bà Lê Thị Hoài M, bà Lê Thị Hồng Q, ông Lê Vinh Q, bà Lê Thúy A, ông Lê Quang V là có căn cứ.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn kháng cáo nhưng cũng không đưa ra chứng cứ, tài liệu nào mới. Do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tất cả các nhận định nêu trên cũng là luận cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do ông Nguyễn Văn M là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn M. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 11/2023/DS-ST ngày 16/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Áp dụng Điều 175 Bộ luật dân sự; Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp quyền sử dụng 9,5m2 đất tại vị trí khu A trong Mảnh trích đo địa chính số 586-2020 ngày 26/11/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức H phê duyệt ngày 15/12/2020 của nguyên đơn ông Nguyễn Văn M đối với bị đơn bà Phan Thị H do những người thừa kế của bà H kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm bà Lê Thị Ánh H1, bà Lê Thị Hồng H, bà Lê Thị Hoài D, bà Lê Thị Hoài M, bà Lê Thị Hồng Q, ông Lê Vinh Q, bà Lê Thúy A, ông Lê Quang V.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn M là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7; 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 546/2023/DS-PT

Số hiệu:546/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:15/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về