TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 458/2020/DS-PT NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 485/2019/TLDS-PT ngày 19/9/2019 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2019/DS-ST ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 98/2020/QĐ-PT ngày 07/02/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1979; cư trú tại: Ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt) Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà Trương Thị Mỹ N là luật sư của Công ty luật TNHH MTV Minh Quốc thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Võ Văn Đ1, sinh năm 1950 (có mặt) và bà Hồ Thị H, sinh năm 1952 (vắng mặt). Cùng cư trú tại: Ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Hồ Thị H: Ông Võ Văn Đ1, sinh năm 1950; cư trú tại: Ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Hiển T là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bạc Liêu. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngân hàng Thương mại Cổ phần C; trụ sở: đường Trần H, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức T1, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Minh L, chức vụ: Trưởng phòng giao dịch Đ. (có đơn xin xét xử vắng mặt) 2. Ông Huỳnh Văn H1, sinh năm 1941; cư trú tại: Ấp 2, thị trấn G, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt) 3. Bà Huỳnh Thị H2, sinh năm 1955; cư trú tại: Ấp Hòa I, xã Long Điền, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt) 4. Ông Huỳnh Văn G, sinh năm 1955; cư trú tại: Ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt) 5. Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1960; cư trú tại: Ấp T, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt) 6. Ông Huỳnh Văn N1, sinh năm 1963; cư trú tại: Ấp 5, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Văn H1, ông Huỳnh Văn G, bà Huỳnh Thị H2, bà Huỳnh Thị B, ông Huỳnh Văn N1:Ông Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1979; cư trú tại: Ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt) 7. Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu; trụ sở: Ấp 4, thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tô Minh Đ2, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Huỳnh Văn Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/5/2017 của nguyên đơn ông Huỳnh Văn Đ trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp trước đây của ông bà nội ông là ông Huỳnh Văn Đ3 (chết tháng 4/2006) và bà Phan Thị H3 (chết tháng 02/2009),khai phá vào năm 1941-1942. Phần đất này, ông bà nội đã cho lại ông, do ông ở chung với ông bà nội từ nhỏ. Khi cho không có làm giấy tờ gì chỉ nói miệng, nhưng trong gia đình ai cũng biết, cho vào thời gian nào ông cũng không nhớ. Ông bà nội để lại cho ông toàn bộ diện tích đứng tên của bà nội nhưng không nói diện tích cụ thể bao nhiêu. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà nội ông là bà Phan Thị H3 được Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp năm 1995 với diện tích 16.800m2 tại thửa 831 tờ bản đồ số 12.
Vào năm 2001-2002, ông Võ Văn Đ1 và bà Hồ Thị H cất nhà lấn qua phần đất của ông bà nội ông (do phần đất của ông Huỳnh Văn Đ3 và bà Phan Thị H3 giáp ranh với phần đất của ông Võ Văn Đ1), ông nội ông có trình báo chính quyền địa phương Ban nhân dân ấp Minh Điền để ngăn cản không cho ông Đ1 và bà H cất nhà lấn qua ranh đất của ông bà nội ông, chính quyền địa phương có đến nhưng không có lập biên bản. Ông Đ1 và bà H đã cất nhà kiên cố như hiện nay. Sau khi ông nội chết thì ông Đ biết phần đất ông Đ1 cất nhà là nằm trong Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phan Thị H3.
Từ khoảng năm 2009 đến năm 2015 thì ông và ông Đ1 thường xuyên cự cãi về phần đất ông Đ1 cất nhà. Vào khoảng tháng 10/2015, ông Đ có chặt cây trên phần đất ông bà nội ông để lại nhưng phía gia đình ông Đ1 ngăn cản không cho chặt cây, sau đó ông Đ1 có thưa ông đến chính quyền địa phương cho rằng ông lấn đất của ông Đ1. Nay, ông khởi kiện yêu cầu ông Võ Văn Đ1 và bà Hồ Thị H có trách nhiệm trả lại cho ông phần đất diện tích qua đo đạc thực tế là 408,1m2 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phan Thị H3. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên hiện nay, đang thế chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần C để đảm bảo khoản vay của bà Phan Thị H3.
Ngoài ra, ông không còn yêu cầu nào khác.
Bị đơn ông Võ Văn Đ1 trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp của ông nội ông là ông Võ Văn T2 khai phá sử dụng từ trước đến nay. Sau này ông nội ông cho cha ông là Võ Văn L và cha ông để lại cho ông sử dụng từ năm 1977 đến nay. Khoảng năm 2015, nhân viên điện lực Đông Hải kéo dây điện thì có chặt cây của ông để kéo dây điện, khi đó ông Huỳnh Văn Đ cho rằng các cây trồng nằm trên phần đất của ông bà nội ông Đ. Từ đó hai bên phát sinh tranh chấp. Phần đất này ông Đ1 đã kê khai đăng ký trong sổ mục kê địa chính năm 1993 diện tích 1.600m2, đến nay thì ông Đ1 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay, ông Đ khởi kiện yêu cầu ông trả lại phần đất qua đo đạc thực tế là 408,1m2 thì ông không đồng ý vì phần đất này từ thời điểm ông bà nội ông và cha ông sử dụng cách đây đã hơn trăm năm, bản thân ông đã sử dụng đất liên tục từ năm 1977 đến nay và ông đã xây dựng nhà kiên cố trên đất nên việc ông Đ yêu cầu ông trả lại phần đất diện tích trên thì ông không đồng ý. Đồng thời, ông Đ1 yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phan Thị H3 đối với diện tích đất tranh chấp 408,1m2 vì đất ông đã sử dụng ổn định hơn 40 năm, việc cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3 là không đúng. Ông Đ1 xác định căn nhà của ông trước đây cất là nằm cặp ranh với đất bà H3, sau này cách đây khoảng 06-07 năm ông đã cất lại căn nhà như hiện nay, khi cất lại căn nhà thì ông dời vị trí căn nhà về hướng đất của ông chứ không phải ngay vị trí cũ gần hướng đất của bà H3, khi ông cất nhà thì ông bà nội ông Đ cũng như ông Đ không có ngăn cản gì. Ngoài ra, ông Đ1 không còn yêu cầu nào khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông Huỳnh Văn H1, bà Huỳnh Thị H2, bà Huỳnh Thị B, ông Huỳnh Văn N1, ông Huỳnh Văn G: Các ông bà xác định cha mẹ ông bà là ông Huỳnh Văn Đ3 và bà Phan Thị H3. Ông Điền và bà H3 có 05 người con chung: Huỳnh Văn H1, Huỳnh Văn G, Huỳnh Thị H2, Huỳnh Thị B, Huỳnh Văn N1; ngoài ra ông Điền và bà H3 không có người con nuôi hay con riêng nào khác. Ông bà thống nhất xác định nguồn gốc phần đất diện tích 16.800m2 trong đó có phần đất tranh chấp 408,1m2 là của ông Huỳnh Văn Đ3 và bà Phan Thị H3 khai phá. Phần đất này được Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3 năm 1995. Sau khi ông Điền và bà H3 chết thì để lại toàn bộ phần đất nêu trên cho ông Huỳnh Văn Đ, do ông Đ sống chung với ông Điền, bà H3 từ nhỏ. Việc tặng cho đất không có làm giấy tờ chỉ nói miệng nhưng các anh chị em ông bà đều biết và đồng ý việc tặng cho đất này, không có ý kiến gì. Nay, phần đất này cha mẹ ông bà đã cho ông Đ nên ông Đ có toàn quyền quyết định đối với phần đất này, các ông bà không có ý kiến gì khác, việc các ông bà ủy quyền cho ông Đ đi khởi kiện đòi lại đất là để trả lại đất cho ông Đ. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Đ thì ông bà đồng ý giao đất tranh chấp lại cho ông Đ quản lý và sử dụng.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần C, người đại diện theo ủy quyền ông Trần Minh L trình bày: Ngày 28/6/2003, Ngân hàng có ký hợp đồng tín dụng với bà Phan Thị H3 cho vay số tiền 24.000.000 đồng, bà H3 thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 16.800m2 tại thửa 831, 836, 846 tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải do bà Phan Thị H3 đứng tên để đảm bảo Hợp đồng tín dụng. Ngày 29/7/2004 bà H3 đã thanh toán xong khoản nợ trên và tiếp tục vay số tiền 30.000.000 đồng. Đến ngày 27/5/2019, bà H3 còn nợ ngân hàng tổng số tiền 106.015.000đồng, trong đó nợ gốc 30.000.000đồng và lãi 76.015.000đồng. Ngân hàng yêu cầu người thừa kế của bà H3 trả nợ ngân hàng, nếu không trả nợ thì đề nghị phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất nêu trên. Tại phiên họp hòa giải và phiên tòa, đại diện ngân hàng không yêu cầu người thừa kế của bà H3 trả nợ ngân hàng trong vụ án này, ngân hàng sẽ khởi kiện thành vụ án độc lập khác.
Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải do ông Bùi Minh T là Chủ tịch Ủy ban nhân dân đại diện trình bày: Qua kiểm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Phan Thị H3 (Phạm Thị Hai) được Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 tổng diện tích 16.800m2 (trong đó có thửa đất số 0831, tờ bản đồ số 12, diện tích 3.400m2) thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp với trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy. Tuy nhiên, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995, Nhà nước cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân là đại trà theo bản đồ 299 (bản đồ không ảnh) nên có một số hạn chế nhất định: có trường hợp cấp sai chủ sử dụng, cấp nhầm thửa, sai vị trí. Vì vậy, đối với trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Phan Thị H3 đối với phần đất tranh chấp diện tích 408,1m2, đề nghị Tòa án kiểm tra làm rõ và giải quyết theo quy định pháp luật. Gia đình ông Võ Văn Đ1 quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 1977 nhưng Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3. Đề nghị Tòa án xác minh làm rõ.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là ông Trần Hiển T trình bày: Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông bà ông Đ1 để lại cho cha mẹ ông Đ1, đến năm 1977 cha mẹ ông Đ1 để lại cho ông Đ1 sử dụng và ông Đ1 đã cất nhà ở từ đó đến nay đã trên 40 năm không có tranh chấp. Nay ông Đ khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Đ1 bà H trả diện tích đất 408,1m2 là không có căn cứ. Đồng thời yêu cầu chấp nhận yêu cầu của ông Đ1 hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phan Thị H3 đối với diện tích nêu trên, do việc Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2019/DS-ST ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Đ đòi ông Võ Văn Đ1 và bà Hồ Thị H trả phần đất có diện tích 408,1m2 (trong đó có 25,2m2 đất thuộc bảo lưu lộ giới), thuộc một phần thửa 831, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, được Ủy ban nhân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận cho bà Phan Thị H3 năm 1995.
2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H134413 ngày 25/11/1995 đối với phần đất có diện tích 408,1m2 (trong đó có 25,2m2 đất thuộc bảo lưu lộ giới) thuộc một phần thửa số 831, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, được Ủy ban nhân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3 theo Quyết định số 489/QĐ- UB ngày 25/11/1995. Phần đất có vị trí và số đo như sau: (Theo Biên bản đo đạc thẩm định đất tranh chấp ngày 12/12/2017):
Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn Đ1 cạnh dài 40,3m; Hướng Tây giáp phần đất bà Phan Thị H3 (ông Huỳnh Văn Đ đang sử dụng) cạnh dài 39,6m; Hướng Nam giáp phần đất bà Phan Thị H3 cạnh dài 11,5m; Hướng Bắc giáp lộ Minh Điền cạnh dài 9,1m.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên vềchi phí tố tụng, tiền án phí và dành quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/8/2019, nguyên đơn Huỳnh Văn Đ có đơn kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Huỳnh Văn Đ thay đổi yêu cầu kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn – Luật sư Trương Thị Mỹ N trình bày: Bản án sơ thẩm không khách quan do không xem xét nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của nguyên đơn, đã đăng ký sổ mục kê. Người làm chứng của ông Đ1 có mối quan hệ họ hàng, người quen nên không khách quan. Yêu cầu sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn là ông Trần Hiển T trình bày: Về nguồn gốc đất, ông Đ thừa nhận ông Đ1 là người sử dụng đất từ năm 1977, nguồn gốc là có 1 phần do ông nội của ông Đ1 khai phá, lời khai của ông Đ phù hợp với lời trình bày của các đương sự khác. Theo Công văn số 1329/UBND ngày 16/5/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải xác định năm 1995 bà H3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có luôn đất tranh chấp do ông Đ1 sử dụng từ năm 1977 đã kê khai sổ mục kê năm 1993 nhưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H3 là sai chủ sử dụng. Nên việc khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ để xem xét. Bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử giữ y bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã tiến hành đúng quy định của pháp luật; tại phiên tòa người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 là cấp đại trà. Tại biên bản hòa giải tại UBND xã Long Điền Đông ngày 07/01/2016 thể hiện phần đất tranh chấp thuộc sở hữu của ông Đ1. Phần đất này cũng được đăng ký vào năm 1993 và có trong sổ mục kê. Nhận định của Bản án sơ thẩm là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật định và hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Bị đơn bà Hồ Thị H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông H1, bà H2, ông G, ông N1 vắng mặt nhưng có mặt người đại diện theo ủy quyền; Ngân hàng Thương mại Cổ phần C, UBND huyện Đông Hải vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có văn bản thể hiện ý kiến trong hồ sơ vụ án. Sự vắng mặt của các đương sự nêu trên không làm ảnh hưởng đến việc xem xét kháng cáo, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn:
[2.1] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng phấn đất tranh chấp:
Nguyên đơn ông Huỳnh Văn Đ xác định phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông bà nội ông là ông Huỳnh Văn Đ3 và bà Phan Thị H3 khai phá vào năm 1941-1942. Phần đất này, ông bà nội đã cho lại ông vào đầu năm 2006 trước khi ông nội ông chết, do ông ở chung với ông bà nội từ nhỏ. Khi cho không có làm giấy tờ gì chỉ nói miệng, nhưng trong gia đình ai cũng biết. Ông bà nội để lại cho ông toàn bộ diện tích đứng tên bà nội nhưng không nói diện tích cụ thể bao nhiêu. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà nội ông là bà Phan Thị H3 được Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp năm 1995 với diện tích 16.800m2 tại các thửa 831, 836, 846 tờ bản đồ số 12.
Bị đơn ông Võ Văn Đ1 cho rằng phần đất tranh chấp của ông nội ông là ông Võ Văn T2 khai phá sử dụng cách nay trên trăm năm. Sau này ông nội ông cho cha ông là Võ Văn L và cha ông để lại cho ông sử dụng từ năm 1977 đến nay. Ông Đ1 xác định gia đình ông sử dụng phần đất này từ năm 1977, sử dụng ổn định lâu dài, quá trình sử dụng ông Đ1 cất nhà ở kiên cố thì gia đình ông Đ cũng không có ý kiến hay ngăn cản gì. Lời trình bày của bị đơn phù hợp với lời khai của những người làm chứng bà Lưu Thị P, ông Nguyễn Văn P1, ông Trần Văn M, ông Trương Văn T3, bà Nguyễn Thị N2, ông Đặng Thành C và ông Dương Văn B (bút lục từ số 78 đến 85) đều xác định nguồn gốc đất tranh chấp là do gia đình ông Đ1 sử dụng qua ba đời là của ông nội ông Đ1 khai phá sử dụng, sau này ông nội ông Đ1 cho cha ông Đ1 và cha ông Đ1 để lại cho ông Đ1 sử dụng từ năm 1977 đến nay. Trong quá trình sử dụng không có phát sinh tranh chấp.
Đồng thời, tại Công văn số 620/UBND ngày 13/3/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải (huyện Đông Hải được chia tách từ huyện Giá Rai trước đây) xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3 vào năm 1995 là cấp đại trà theo bản đồ 299 (bản đồ không ảnh), không có đo đạc thực tế nên có một số hạn chế nhất định như có trường hợp cấp sai chủ sử dụng, cấp nhầm thửa, sai vị trí. Gia đình ông Võ Văn Đ1 quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 1977, nhưng Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3.
Do đó căn cứ vào lời khai người làm chứng, văn bản của Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải và lời khai của ông Đ1, có cơ sở xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của gia đình ông Võ Văn Đ1 sử dụng từ năm 1977 đến nay. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Đ về việc yêu cầu ông Đ1, bà H trả lại diện tích đất tranh chấp.
[2.2] Xét yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phan Thị H3 đối với diện tích 408,1m2: Theo Công văn số 1329/UBND ngày 16/5/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải (bút lục 155): Đối với hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Phan Thị H3 (Phạm Thị Hai) được Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 tổng diện tích 16.800m2 (trong đó có thửa đất số 0831, tờ bản đồ số 12, diện tích 3.400m2) thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp với trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy. Tuy nhiên, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995, Nhà nước cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân là đại trà theo bản đồ 299 (bản đồ không ảnh) nên có sai sót, vì trên thực tế phần đất tranh chấp do ông Võ Văn Đ1 quản lý, sử dụng từ năm 1977, nhưng Ủy ban nhân dân huyện Giá Rai lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3. Đây là trường hợp cấp sai chủ sử dụng. Do đó, nhận định của bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của ông Đ1 là phù hợp.
[3] Tại Văn bản số 46/TB-CNBLI-PGDĐHngày 25/8/2020, Ngân hàng Thương mại Cổ phần C đề nghị xét xử vắng mặt và yêu cầu người thừa kế hợp pháp tài sản tranh chấp phải có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng nếu không ngân hàng yêu cầu xử lí phát mãi tài sản. Xét thấy,trong quá trình giải quyết vụ án Ngân hàng không có đơn yêu cầu độc lập và không có đơn kháng cáo. Đồng thời, tại cấp sơ thẩm, Ngân hàng xác định không yêu cầu những người thừa kế của bà Phan Thị H3 có nghĩa vụ thanh toán nợ trong vụ án này, ngân hàng sẽ khởi kiện thành một vụ kiện độc lập khác, nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không đặt ra vấn đề xem xét yêu cầu nêu trên của ngân hàng.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn không có xuất trình tại liệu, chứng cứ gì mới ngoài những tài liệu, chứng cứ đã được Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, do đó không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, bị đơn.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Văn Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2019/DS-ST ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Tuyên xử:
1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Đ đòi ông Võ Văn Đ1 và bà Hồ Thị H trả phần đất có diện tích 408,1m2 (trong đó có 25,2m2 đất thuộc bảo lưu lộ giới), thuộc một phần thửa 831, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, được Ủy ban nhân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận cho bà Phan Thị H3 năm 1995.
2/ Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H134413 ngày 25/11/1995 đối với phần đất có diện tích 408,1m2 (trong đó có 25,2m2 đất thuộc bảo lưu lộ giới) thuộc một phần thửa số 831, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp Minh Đ, xã L, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, được Ủy ban nhân huyện Giá Rai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H3 theo Quyết định số 489/QĐ- UB ngày 25/11/1995. Phần đất có vị trí và số đo như sau: (Theo Biên bản đo đạc thẩm định đất tranh chấp ngày 12/12/2017):
Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn Đ1 cạnh dài 40,3m;Hướng Tây giáp phần đất bà Phan Thị H3 (ông Huỳnh Văn Đ đang sử dụng) cạnh dài 39,6m;Hướng Nam giáp phần đất bà Phan Thị H3 cạnh dài 11,5m;Hướng Bắc giáp lộ Minh Điền cạnh dài 9,1m.
3/ Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Huỳnh Văn Đ phải chịu 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0010193 ngày 13/8/2019 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 458/2020/DS-PT
Số hiệu: | 458/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về