Chào chị, ban biên tập xin giải đáp như sau:
Theo Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015, quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện như sau:
Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện
Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).
Theo đó, ủy quyền là một trong hai hình thức để xác lập quyền đại diện.
Theo Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện theo ủy quyền được quy định như sau:
Điều 138. Đại diện theo ủy quyền
Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
Như vậy, ủy quyền là việc cá nhân, pháp nhân cho phép tổ chức, cá nhân khác đại diện mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Theo Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015, quy định về phạm vi đại diện như sau:
Điều 141. Phạm vi đại diện
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.
Theo đó, người được ủy quyền chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo 4 căn cứ của quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, nôi dung ủy quyền, quy định khác của pháp luật.
Như vậy, nếu trong nội dung ủy quyền hai bên có thỏa thuận việc được tự ý bán đất cho người khác, thì người được ủy quyền có căn cứ để thực hiện việc bán đất cho người khác mà không cần sự đồng ý của người ủy quyền.
Ngược lại, nếu trong nội dung ủy quyền hai bên không thỏa thuận cụ thể về việc bán đất cho người khác, thì người được ủy quyền cần được sự đồng ý của người ủy quyền trước khi thực hiện việc bán đất cho người khác.
Theo Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015, hậu quả của giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện được quy định như sau:
Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.
Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Theo đó, đối với giao dịch tự ý bán đất vượt quá phạm vi đại diện thì giao dịch của người được ủy quyền và bên thứ ba sẽ đương nhiên bị vô hiệu. Ngoài ra, người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ đối với bên thứ ba trừ khi bên thứ ba đã biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn thực hiện giao dịch.
Trân trọng!