Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 10/2020/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2020/DS-PT NGÀY 06/03/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 85/2017/TLPT-DS ngày 06 tháng 12 năm 2017 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 23/2020/QĐ-PT ngày 19 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn K. Địa chỉ: Khối N, huyện T, tỉnh Nghệ An. Người đại diện theo pháp luật: Ông Tô Anh Ph ; Chức vụ: Giám đốc. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Tử B , sinh năm 1939. Địa chỉ:

Xóm L, xã K, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ , sinh năm1953. Địa chỉ: Xóm T, cụm M, xã D, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1 1. Anh Nguyễn Trọng M , sinh năm 1981. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Trọng V , sinh năm 1987. Có mặt.

3. Chị Nguyễn Thị T , sinh năm 1983. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của anh M , chị T , anh V : Bà Nguyễn Thị Đ , sinh năm 1953. Có mặt.

Đều có địa chỉ: Xóm T, cụm M, xã D, huyện K, tỉnh Nghệ An.

- Người kháng cáo: Công ty Trách nhiệm hữu hạn K, nguyên đơn và bà Nguyễn Thị Đ , bị đơn.

- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các lời khai, hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm Hữu hạn K (Công ty TNHH K) trình bày: Ngày 02/01/1996, Công ty TNHH K được Uỷ ban nhân dân tỉnh N (UBND) giao cho 578 ha đất Lâm nghiệp tại tiểu khu 853 và 860 thuộc xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An theo Quyết định số 239/QĐ-UB để sản xuất kinh doanh, bảo vệ xây dựng và phát triển rừng. Tại thời điểm làm hồ sơ và nhận đất Công ty đã phát hiện có hộ gia đình nào đó đã trồng một số cây bạch đàn trên diện tích đất mà UBND N đã giao cho Công ty và Công ty đã cho cán bộ bồi thường cho họ (ông cũng không nhớ rõ hộ đó là ai), đến ngày 30/12/2008 UBND N quyết định chuyển 578 ha đất lâm nghiệp từ hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất sang hình thức thuê đất theo Quyết định số 452/QĐ-UBND.ĐC ngày 30/12/2008 với diện tích là 5.715.000,0 m2 (Diện tích đất lâm nghiệp tại quyết định này ít hơn so với Quyết định số 239 ngày 02/01/1996 là do có đường mòn Hồ Chí Minh đi qua nên Nhà nước đã thu hồi một số diện tích đất lâm nghiệp từ 578ha xuống còn 5.715.000,0m2), đến ngày 20/02/2009 thì diện tích đất lâm nghiệp của Công ty là 5.715.000,0m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663. Sau khi được UBND N giao đất, đến năm 2005 Công ty phát dọn đất để đ- ưa vào sản xuất thì phát hiện gia đình bà Nguyễn Thị Đđã có hành vi chiếm dụng đất của Công ty 80.783m2, Công ty đã có nhiều giải pháp và có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân (UBND) xã N, huyện K và Hạt Kiểm Lâm huyện T, tỉnh Nghệ An can thiệp để bà Nguyễn Thị Đvà những người đang canh tác trên diện tích đất đang tranh chấp trả đất lại cho Công ty nhưng không có kết quả và từ đó đến nay bà Đ vẫn tiếp tục phát sẻ trồng cây, chiếm dụng của công ty 80.783m2 đất lâm nghiệp. Vì vậy, Công ty TNHH K yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Đvà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải thu hoạch toàn bộ số cây trồng trên diện tích đất 80.783m2 để trả lại đất cho Công ty TNHH K. Tại đơn khởi kiện ngày 10/6/2009 Công ty TNHH K yêu cầu bà Nguyễn Thị Đvà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả lại diện tích đất Lâm nghiệp 71.466m2, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH K yêu cầu bà Nguyễn Thị Đvà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả lại diện tích đất Lâm nghiệp 80.783m2, tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Công ty TNHH K yêu cầu bà Nguyễn Thị Đtrả lại diện tích đất lâm nghiệp là 80.783m2 (Theo số liệu tại biên bản kiểm tra thẩm định tại chỗ ngày 11/4/2017).

Bà Nguyễn Thị Đ, anh Nguyễn Trọng M, anh Nguyễn Trọng V và chị Nguyễn Thị Th (Các cơn của bà Đ ) thống nhất trình bày: Vào năm 1991, gia đình bà Đ đã vào khu vực thương binh tiểu khu 860 xã D, huyện K, tỉnh Nghệ An để phát sẻ và trồng một số cây trên diện tích đất mà hiện nay Công ty TNHH K đang khởi kiện bà Đ . Đến năm 1993 và năm 1994, ông Nguyễn Văn S (chồng bà Đ nay đã mất) đã làm đơn xin nhận 15 ha đất rừng tại khu vực thương binh tiểu khu 860, xã D, huyện T, tỉnh Nghệ An (nay là tiểu khu 860, khoảnh 3, số thửa 611, tờ bản đồ số 1, bản đồ 163/CP xã D, huyện T, tỉnh Nghệ An) và đã được Ủy ban nhân dân xã N, huyện T đồng ý và từ đó đến nay, bà Đ đã cùng các con Nguyễn Thị T , Nguyễn Trọng M và Nguyễn Trọng V trực tiếp canh tác trên diện tích đất lâm nghiệp 71.647,2 m2, trên đấy trồng các loại cây bạch đàn, xoan đâu, sắn, mía, cam, chanh, keo... Mặc dù diện tích đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích gia đình bà xin nhận đất vườn rừng là 15 ha nhưng thực tế gia đình bà Đ đã sử dụng ổn định từ năm 1991 đến nay diện tích đất lâm nghiệp 71.647,2m2, không có lấn chiếm của ai. Kể từ ngày bà Đ cùng các con sử dụng diện tích đất trên thì gia đình bà Đ cũng không được Cơ quan Nhà nước thông báo về việc làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như không có thông báo, quyết định thu hồi đất hoặc quyết định đình chỉ sản xuất của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cũng không có sự bồi thường nào. Nay, Công ty TNHH K yêu cầu gia đình bà Đ phải thu hoạch toàn số cây và trả cho Công ty 71.647,2m2 đt lâm nghiệp, bà Đ không chấp nhận vì diện tích đất lâm nghiệp gia đình bà Đ đã sử dụng trước khi UBND bà Đ giao cho Công ty TNHH K đã được chính quyền địa phương cho phép gia đình bà sử dụng từ năm 1992.

Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An đã quyết định:

Áp dụng Điều 32 Luật đất đai năm 2003; Điều 255, Điều 256 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 106, Điều 203 luật đất đai năm 2013.

1. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH K về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Đvà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả lại cho Công ty TNHH K diện tích đất 71.647,2m2 tại tiểu khu 860, khoảnh 3 thửa số 611 tờ bản đồ số 1 bản đồ 163/CP thuộc xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An.

2. Kiến nghị với UBND T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 của UBND T tại tiểu khu 860 khoảnh 3 thửa số 611 tờ bản đồ số 1 bản đồ 163/CP thuộc xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An diện tích đất 5.715.000,0m2 cấp cho Công ty TNHH K để cấp lại theo đúng quy định của pháp luật đất đai.

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/10/2017 Công ty TNHH K có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm; Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K.

Ngày 11/10/2017 bà Nguyễn Thị Đkháng cáo có nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy tất cả các quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND T cấp cho Công ty K để đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà Đ .

Ngày 25/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân N có kháng nghị với nội dung: Bản án sơ thẩm xác định chứng cứ không đúng quy định; Vi phạm về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản; Bản án không tuyên quyền kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền là không đúng quy định tại Điều 271 BLTTDS; Giải quyết vụ án không đúng quy định pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định việc cấp đất cho Công ty K của UBND T chưa đúng quy định của pháp luật, nhưng quyết định Kiến nghị với UBND T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 của UBND T tại tiểu khu 860 khoảnh 3 thửa số 611 tờ bản đồ số 1 bản đồ 163/CP thuộc xã N, huyện T, Nghệ An diện tích đất 5.715.000m2 cấp cho Công ty TNHH K để cấp lại theo đúng quy định của pháp luật đất đai là không đúng thẩm quyền của Tòa án về việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản Điều 34, Điều 47, 48 của BLTTDS. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Công ty TNHH K, bà Nguyễn Thị Đvẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân N giữ nguyên nội dung của Quyết định kháng nghị và phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Các đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của họ. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử, chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của Công ty K, kháng cáo của bà Đ và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An; hủy bản án sơ thẩm, giao cho cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, người đại diện theo ủy quyền của các đương sự đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng và ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân T tại phiên tòa phúc thẩm. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn làm đơn kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân T có quyết định kháng nghị trong thời hạn luật định. Do đó Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý và tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của Công ty TNHH K:

Ngày 02/01/1996, Công ty TNHH K được UBND T giao 578 ha đất Lâm nghiệp tại tiểu khu 853 và 860 thuộc xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An theo Quyết định số 239/QĐ-UB để sản xuất kinh doanh, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. Ngày 30/12/2008 UBND T quyết định chuyển 578ha đất lâm nghiệp từ hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất sang hình thức thuê đất theo Quyết định số 452/QĐ- UBND.ĐC ngày 30/12/2008 với diện tích là 5.715.000,0m2 và đến ngày 20/02/2009 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại cơ sở và tại các phiên tòa sơ thẩm, Công ty K xác định; khi được giao đất năm 1996 Công ty đã phát hiện có hộ dân đã sử dụng một phần diện tích đất để trồng các loại cây trước đó. Và quá trình sử dụng đất, năm 2005 Công ty TNHH K phát hiện hộ dân sử dụng diện tích đất đất trước năm 1996 là gia đình bà Nguyễn Thị Đđã có hành vi chiếm dụng đất của Công ty 80.783m2, vì vậy Công ty yêu cầu gia đình bà Đ trả lại phần diện tích lấn chiếm nêu trên cho Công ty.

Căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ, thấy rằng: Căn cứ Quyết định số 239 ngày 02/01/1996 và Quyết định số 452/QĐ-UBND.ĐC ngày 30/12/2008, UBND T đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 cho Công ty TNHH K với diện tích đất là 5.715.000,0m2. Trong quá trình giải quyết tranh chấp từ năm 2008 đến nay; Các tài liệu chứng cứ thể hiện diện tích đất đang có tranh chấp đã được gia đình bà Nguyễn Thị Đsử dụng từ năm 1992 đến nay. Diện tích đất này mặc dù chưa được cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng việc gia đình bà Đ sử dụng đất được UBND xã N, huyện Tân KỳT xác nhận, Ban cán sự xóm M xác nhận. Khi UBND T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH K thì điện tích đất đó đang còn có tranh chấp và chưa được giải quyết xong (Biên bản làm việc với 2 hộ liên quan đến rừng Công ty TNHH K ngày 29/10/2009 (Bl, 292), biên bản giải quyết đơn thư kiếu nại của Công ty TNHH K ngày 07/10/2008 (Bl, 294).

Tại công văn số 8362/UBND-BTĐ ngày 03/11/2016 của UBND T (BL, 336) cũng xác định, tại thời điểm UBND T giao rừng cho Công ty TNHH K (Theo Quyết định 239/QĐ.UB ngày 02/01/1996 của UBND t) đã phát hiện 02 hộ gia đình bà Đ và bà H ải đã sử dụng trên phần diện tích này khoảng từ 3 - 5ha chứ không phải diện tích như hiện nay các hộ khiếu nại. Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17/7/2018, ngày 24/7/2018 và tại các cuộc làm việc, đối thoại giữa các hộ dân trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, đại diện Công ty TNHH K cũng thừa nhận diện tích đất của Công ty K được UBND t cấp, trong đó có phần đất của gia đình bà Nguyễn Thị Đsử dụng trước đó đã xảy ra tranh chấp từ năm 2005 cho đến nay, chưa được giải quyết xong. Diện tích đất gia đình bà Đ sử dụng cũng chưa có quyết định thu hồi, bồi thường của Cơ quan có thẩm quyền quản lý về đất đai. Do đó, việc giao đất của UBND t cho Công ty TNHH K theo Quyết định 239/QĐ.UB ngày 02/01/1996 của UBND T và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 của UBND t là chưa đúng với quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K về việc yêu cầu gia đình bà Đ trả lại diện tích 71.647,2m2 là một phần có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty K không cung cấp chứng cứ gì thêm và đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm giải quyết lại để xác định đúng diện tích đất lâm nghiệp các hộ gia đình đã sử dụng là có cơ sở cần chấp nhận.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đvà nội dung kháng nghị của VKSND tỉnh Nghệ An: bà Đ đề nghị cấp phúc thẩm tuyên hủy Quyết định 239/QĐ.UB ngày 02/01/1996 của UBND tỉnh Nghệ An, quyết định số 452/QĐ- UBND.ĐC ngày 30/12/2008 của UBND T và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 của UBND T. Xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự xuất trình, Tòa án cấp sơ thẩm xác định việc giao đất của UBND T cho Công ty TNHH K theo Quyết định 239/QĐ.UB ngày 02/01/1996 của UBND T và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL508663 ngày 20/02/2009 của UBND T là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ kiến nghị UBND T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 là không đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp, cần xem xét tính hợp pháp của quyết định cá biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là vi phạm khoản 3 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự. Đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy, cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn có một số thiếu sót như, thu thập tài liệu sao không có công chứng, chứng thực và chưa xem xét các khoản chi phí thẩm định, định giá tài sản tranh chấp…mà kháng nghị nêu, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Về thẩm quyền xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 508663 ngày 20/02/2009 do UBND T cấp, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, vì vậy cần giao vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[5] Về án phí: Công ty TNHH K và bà Nguyễn Thị Đ không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của Công ty TNHH K và bà Nguyễn Thị Đ ; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân T. Tuyên xử:

1. Hủy Bản án sơ thẩm số 12/2017/DSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Nghệ An. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

2. Về án phí:

- Trả lại cho Công ty TNHH K 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009308 ngày 09/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Nghệ An.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Đ300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009310 ngày 11/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Nghệ An.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 10/2020/DS-PT

Số hiệu:10/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về