TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON
Trong ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2022/TLST- HNGĐ, ngày 27 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2022/QĐXXST-HN ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: bà Lê Thị Ngọc L, sinh năm 1979 (có đơn xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Bị đơn: ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1978 (có đơn xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: ấp H, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Con chung của bà L và ông C tên: Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005. Địa chỉ: ấp H, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh (có đơn xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Lê Thị Ngọc L là nguyên đơn trình bày: Bà và ông C tự quen biết nhau, được cha mẹ hai bên gia đình đồng ý cho ông, bà đi đến hôn nhân, đám cưới được tổ chức vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C vào ngày 19/5/2011, nữ trang ngày cưới tổng cộng 05 chỉ vàng 24kra và 01 chỉ vàng 18kra, tất cả số nữ trang này vợ chồng đã đồng ý bán hết để chi tiêu chung, hiện nay không còn, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2005 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hằng ngày, đi lại, công việc làm ăn, vợ chồng không tin tưởng nhau, gia đình không hạnh phúc, nên vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2005 đến nay, không hàn gắn được.
Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng sinh được 02 người con chung tên Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã thành niên và Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005 hiện đang sống chung với ông C.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có tạo lập tài sản chung.
Về nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có thiếu nợ ai và cũng không có ai nợ vợ chồng bà.
Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: bà xin được ly hôn với ông Nguyễn Văn C.
- Về con chung tên: Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã thành niên và Nguyễn Thanh S, sinh năm 09/01/2005 hiện đang sống chung với ông C, sau khi ly hôn theo nguyện vọng của con tên S sống với ai người đó nuôi dưỡng, không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con, đối với con tên L đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai khai ông Nguyễn Văn C là bị đơn trình bày: Ông là chồng của bà Lê Thị Ngọc L, ông hoàn toàn thống nhất lời trình bày của bà L về hôn nhân, con chung, tài sản chung là đúng sự thật, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2005 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng ý kiến, sống không có hạnh phúc nên vợ chồng đã ly thân nhau từ đầu năm 2005 đến nay không hàn gắn được.
Nay về quan hệ hôn nhân ông đồng ý ly hôn với bà Lê Thị Ngọc L; Về con chung tên Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã thành niên và Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005 hiện đang sống chung với ông, sau khi ly hôn theo nguyện vọng của con tên S sống với ai người đó nuôi dưỡng, không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con, đối với con tên L đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, ngoài ra ông không yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai cháu Nguyễn Thanh S là con của bà L và ông C trình bày: Cháu là con của bà Lê Thị Ngọc L và ông Nguyễn Văn C, cháu đã nghỉ học, hiện đang sống chung với cha, sau khi cha mẹ ly hôn nguyện vọng của cháu muốn được sống chung với cha là ông Nguyễn Văn C.
Vụ kiện đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng ông Nguyễn Văn C là bị đơn vắng mặt do đó không tiến hành phiên hòa giải được và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa hôm nay bà Lê Thị Ngọc L là nguyên đơn, ông Nguyễn Văn C là bị đơn, cháu Nguyễn Thanh S là con của bà L và ông C, tất cả đều vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trình bày quan điểm cho rằng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý đến thời điểm này Thẩm phán đã chấp hành đúng theo Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát, cấp và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng, đã thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ và đúng theo trình tự pháp luật quy định của phiên tòa sơ thẩm.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên phía bị đơn ông Nguyễn Văn C chưa chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự cụ thể ông Nguyễn Văn C không có mặt trong các phiên hòa giải, công khai chứng cứ mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ.
Về nội dung vụ kiện Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy đinh tại các Điều 19, 51, 53, 54, 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Lê Thị Ngọc L.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Thị Ngọc L và ông Nguyễn Văn C được ly hôn.
- Về con chung: ông Nguyễn Văn C được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005, đối với con tên Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bà Lê Thị Ngọc L được quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự chưa yêu cầu nên không xem xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
Vị còn đề nghị buộc bà Lê Thị Ngọc L có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa hôm nay bà Lê Thị Ngọc L là nguyên đơn, ông Nguyễn Văn C là bị đơn, cháu Nguyễn Thanh S là con của bà L và ông C, tất cả đều vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử.
Về xác định quan hệ tranh chấp: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thì đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dụng vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà Lê Thị Ngọc L và ông Nguyễn Văn C được xác lập vào năm 2000 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C vào ngày 19/5/2011 đúng quy định của pháp luật. Đây là tình tiết không cần phải chứng minh được quy định tại khoản 1 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, từ đó xác định hôn nhân giữa bà L và ông C là hôn nhân hợp pháp.
Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo bà L cho rằng thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2005 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hằng ngày, đi lại, công việc làm ăn, vợ chồng không tin tưởng nhau, gia đình không hạnh phúc, nên vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2005 đến nay, không hàn gắn được. Ông C cho rằng thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2005 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng ý kiến, sống không có hạnh phúc nên vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2005 đến nay không hàn gắn được.
Nay bà L và ông C đều xác nhận vợ chồng không còn tình cảm với nhau và đều có nguyện vọng được ly hôn; Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[2.2] Về con chung tên: Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã thành niên và Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005 hiện đang sống chung với ông C, theo lời trình bày của bà L và ông C thống nhất theo nguyện vọng của cháu S sống với ai người đó nuôi dưỡng, mặt khác theo nguyện vọng của cháu S muốn được sống với ông C, từ đó nghĩ nên giao ông C được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh S sau khi ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Bà Lê Thị Ngọc L có quyền thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản, đối với con tên Nguyễn Văn Vũ L đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: ông C chưa có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
[2.5] Về án phí: bà Lê Thị Ngọc L có nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 19, 51, 53, 54, 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Lê Thị Ngọc L.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Thị Ngọc L và ông Nguyễn Văn C được ly hôn.
- Về con chung: ông Nguyễn Văn C được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh S, sinh ngày 09/01/2005, đối với con tên Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 12/4/2001 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bà Lê Thị Ngọc L được quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự chưa yêu cầu nên không xem xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu, nên không xem xét.
- Về án phí: bà Lê Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2020/0010303, ngày 22/4/2022 do Chi cục thi hành án dân sự huyện C thu, bà Lê Thị Ngọc L đã nộp đủ tiền án phí, ông Nguyễn Văn C không phải nộp án phí.
2. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”
Bản án về tranh chấp ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 21/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về