TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 79/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 85/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 66/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; Hộ khẩu thường trú: khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần An H, sinh năm 1988; Hộ khẩu thường trú: khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 15/01/2021, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà H và ông H chung sống với nhau từ năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 03/12/2008 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện D nay là phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Trong quá trình chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc. Tuy nhiên, sau này vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm sống. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng hiện nay tình trạng của vợ chồng vẫn không được cải thiện. Vợ chồng sống không có tình cảm, không còn hạnh phúc, không ai quan tâm đến ai. Hiện đã ly thân không còn sống chung cùng nhau từ năm 2019 đến nay.
Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông Trần An H.
Quá trình chung sống bà H và ông H có 02 con chung tên Trần Thị Bảo C, sinh ngày 10/12/2009 và Trần Minh T, sinh ngày 15/10/2013. Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị H nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông Trần An H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con 2.000.000 đồng/tháng (hai con là 4.000.000 đồng/tháng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, ngày 28/6/2021, bà H có đơn xác định bà H nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Thị Bảo C, sinh ngày 10/12/2009 và Trần Minh T, sinh ngày 15/10/2013, không yêu cầu ông H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.
Ngoài ra, bà H không có yêu cầu khác, không cung cấp chứng cứ gì thêm.
* Đối với bị đơn ông Trần An H: Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ để yêu cầu ông Trần An H cung cấp bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20/4/2021 và 10/5/2021 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên tòa vào các ngày 10/6/2021 và ngày 09/7/2021 nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Quá trình xác minh, bị đơn ông H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương và hiện vẫn sinh sống tại địa chỉ trên.
Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà H và ông H do Tòa án tiến hành ngày 05/3/2021, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau:
Quá trình bà Nguyễn Thị H và ông Trần An H sinh sống tại địa phương chính quyền không nhận được đơn thư hay trình báo gì về việc bà H và ông H có xảy ra mâu thuẫn trong gia đình. Nên chính quyền địa phương không biết được mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H và ông H là gì cũng như công việc, thu nhập của họ nên không cung cấp thông tin được cho Tòa án.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương có ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định. Bị đơn không chấp hành pháp luật tố tụng. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung về thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông H là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn bà H khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn ông Trần An H có hộ khẩu thường trú tại khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương nên căn cứ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.
[1.2] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H vắng mặt có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trần An H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 10/6/2021 và ngày 09/7/2021 nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần An H chung sống với nhau từ năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện D nay là phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 109 ngày 03/12/2008. Như vậy, hôn nhân giữa bà H và ông H là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận.
Bà H trình bày trong quá trình chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc. Tuy nhiên, sau này vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm sống. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng hiện nay tình trạng của vợ chồng vẫn không được cải thiện. Vợ chồng sống không có tình cảm, không còn hạnh phúc, không ai quan tâm đến ai. Hiện đã ly thân không còn sống chung cùng nhau từ năm 2019 đến nay. Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông Trần An H.
Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã tiến hành triệu tập nguyên đơn, bị đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng nguyên đơn kiên quyết xin ly hôn và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn không có mặt.
Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải quan tâm, quý trọng, thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Từ việc nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn không tham gia hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân đã thể hiện bà H và ông H không có thiện chí hòa giải đoàn tụ với nhau; hai bên cũng không đưa ra được giải pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng để xây dựng gia đình hạnh phúc. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để xác định tình trạng hôn nhân của bà H, ông H đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà H yêu cầu ly hôn với ông H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung:
Bà H và ông H có 02 con chung tên Trần Thị Bảo C, sinh ngày 10/12/2009 và Trần Minh T, sinh ngày 15/10/2013. Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị H nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông Trần An H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con 2.000.000 đồng/tháng (hai con là 4.000.000 đồng/tháng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ngày 28/6/2021, bà H có đơn thay đổi yêu cầu, theo đó bà H nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về vấn đề này cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến gì; mặt khác yêu cầu của nguyên đơn phù hợp với nguyện vọng của các cháu Trần Thị Bảo C và cháu Trần Minh T tại bản tự khai ngày 29/01/2021. Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn cung cấp được Giấy xác nhận nơi làm việc và bảng lương làm việc tại Công ty TNHH May mặc ĐT thể hiện bà H có công việc và thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy việc giao con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của các con, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nguyên đơn bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện của đương sự nên ghi nhận.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.
[4] Về án phí: Nguyên đơn bà H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với ông Trần An H về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Trần An H (Giấy chứng nhận kết hôn số 109/KH/2008 quyển số 01 do Uỷ ban nhân dân xã T, huyện D nay là phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 03/12/2008).
1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Thị Bảo C, sinh ngày 10/12/2009 và Trần Minh T, sinh ngày 15/10/2013 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H về việc không yêu cầu ông Trần An H cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà Nguyễn Thị H và ông Trần An H đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm mà bà H đã nộp theo biên lai thu số 0049341 ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 79/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 79/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về