Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 47/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 47/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON 

Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 136/2022/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022 về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/5/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1994 (có yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 1, khu phố AL, phường HL, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Thượng Trung T, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, khu phố 9, phường CPH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo Đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà Nguyễn Thị H và Ông Thượng Trung T tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND phường CPH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương vào ngày 01/9/2020. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau. Vợ chồng đã sống ly thân hơn 01 năm nay.

Vì tình cảm với ông T không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà H không thể tiếp tục chung sống với ông T được nữa, nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà H có yêu cầu được nuôi cháu Thượng Hoàng N, sinh ngày 08/3/2021 và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Quá trình tố tụng, bị đơn Ông Thượng Trung T đã được được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng ông T vẫn vắng mặt không lý do chính đáng và cũng không có văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa án.

* Kiểm sát viên đại diện VKSND thị xã Bến Cát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và không có ý kiến trình bày, nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị HĐXX chấp nhận cho nguyên đơn được quyền ly hôn với bị đơn. Về con chung, đề nghị giao cháu Thượng Hoàng Nhi, sinh ngày 08/3/2021 cho Bà Nguyễn Thị H nuôi dưỡng. Ghi nhận việc bà H tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án và thủ tục tố tụng:

Các đương sự có tranh chấp về ly hôn và nuôi con. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại khu phố 9, phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, nên vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn Ông Thượng Trung T đã được triệu tập hợp lệ lần 2 để tham gia phiên tòa, nhưng ông T vắng mặt không có lý do chính đáng. Do đó, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự (theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

[2] Về nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị H và Ông Thượng Trung T tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương vào ngày 01/9/2020, nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Nguyên đơn bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn ông T do bà H nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, không thể hàn gắn được, vợ chồng đã sống ly thân hơn 01 năm nay. Xét thấy, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án, điều đó cho thấy bị đơn không quan tâm đến hạnh phúc gia đình, không có thiện chí hàn gắn tình cảm với nguyên đơn. Nguyên đơn và bị đơn đã sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay và không còn quan tâm chăm sóc nhau theo đúng nghĩa vợ chồng. Do đó, mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Xét cháu Thượng Hoàng N, sinh ngày 08/3/2021 đang sống với bà H. Cháu N là con chung dưới 36 tháng tuổi, bà H có công việc và thu nhập ổn định, nên việc bà H có yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N là có căn cứ chấp nhận. Bà H cũng tự nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con, nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyện này.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định.

[4] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, đúng quy định pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn Ông Thượng Trung T về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với bị đơn Ông Thượng Trung T.

- Về con chung: Giao cháu Thượng Hoàng N, sinh ngày 08/3/2021 cho Bà Nguyễn Thị H được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Thượng Trung T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà H và ông T đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Ông T được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết về thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không tranh chấp, không xem xét giải quyết.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải nộp số tiền 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0004803 ngày 21/02/2022 tại Chi cục THADS thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 47/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về