Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 66/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 66/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2022/TLST–HNGĐ, ngày 18 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phan Thị Ngọc T, sinh năm 1987; NKTT: Khóm 8, phường L, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; chổ ở hiện nay: Khóm 5, Phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (Vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1986; địa chỉ cư trú: Khóm 8, phường L, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 02 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn trình bày:

+ Quan hệ hôn nhân: Bà và ông T sống chung với nhau năm 2007 và có đăng ký kết hôn. Hai người đã ly thân khoảng tháng 5 năm 2020, với lý do: Ông T thường xuyên ăn chơi dẫn đến nợ nhiều lần, bà đã cho nhiều cơ hội nhưng ông T vẫn không sửa đổi nên bà cùng con bỏ về Cà Mau sinh sống. Nay bà T yêu cầu ly hôn với ông T.

+ Việc nuôi con: Bà và ông T có 02 người con chung:

1. Nguyễn Phan T, sinh ngày 29 tháng 11 năm 2008

2. Nguyễn Nam T, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2012 Hiện đang sống chung với bà, bà yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng.

+ Chia tài sản: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên không thể tiến hành lấy lời khai được.

- Kiểm sát viên phát biểu:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn không có mặt theo giấy triệu của Tòa án, vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải là không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị Ngọc T xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

+ Về quan hệ con: giao con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng và tạm miễn việc cấp dưỡng.

+ Chia tài sản: không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên việc xét xử vắng mặt của họ là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quan hệ hôn nhân: Do ông T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và không thể tiến hành lấy lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của bà T để giải quyết theo quy định. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp. Thông qua lời khai của bà T đã chứng minh được bà và ông T ly thân từ khoảng tháng 5 năm 2020 cho đến nay, với những lý do mà bà đưa ra. Từ đó, cho thấy hôn nhân giữa họ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu của bà Phan Thị Ngọc T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

[3] Việc nuôi con:

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” - Các cháu đang sống với bà T từ khi ly thân cho đến nay và đang phát triển bình thường, đồng thời hai cháu có nguyện vọng tiếp tục sống chung với bà T nên việc giao cho bà T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: bà Phan Thị Ngọc T không yêu cầu (mặc dù đã được giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Chia tài sản: bà Phan Thị Ngọc T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G là phù hợp nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí:

- Bà Phan Thị Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0003854 ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.

- Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa bà Phan Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn T.

2. Việc nuôi con:

- Giao cháu Nguyễn Phan T, sinh ngày 29 tháng 11 năm 2008 và cháu Nguyễn Nam T, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2012 cho bà Phan Thị Ngọc T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: bà Phan Thị Ngọc T không yêu cầu (mặc dù đã được giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Chia tài sản: bà Phan Thị Ngọc T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

- Bà Phan Thị Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0003854 ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.

- Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 66/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về