TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2022/TLST-HNGĐ ngày 16/02/2022 về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 06/5/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị M – sinh năm 1995. Địa chỉ: Khu 4, xã G, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1994.
Địa chỉ: Khu 4, xã G, huyện H, tỉnh Phú Thọ.
( Chị M có mặt, anh T vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là chị Lê Thị M trình bày:
Chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Văn T vào ngày 18/12/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã G, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Sau khi cưới cuộc sống chỉ hạnh phúc được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở 8 năm nay, chấm dứt mọi quan hệ với anh Toàn, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Nay xác định không còn tình cảm nên chị xin ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Thanh X; sinh ngày 08/03/2014. Hiện nay cháu đang ở với chị M. Ly hôn, chị M xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu X và yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, chị M rút yêu cầu không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, vay nợ chung và các vấn đề khác: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết, bị đơn là anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt. Quá trình làm việc với bố đẻ anh T và xác minh tại Ủy ban nhân dân xã G đều thể hiện chị M và anh T kết hôn tự nguyện và có đăng ký theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn chị M về sống chung cùng gia đình anh T. Vợ chồng hòa thuận được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2014 đến nay, chị M đã về nhà bố mẹ đẻ ở và đi làm ăn, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay không quan tâm đến nhau. Anh T cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Tuy nhiên hiện nay, do bận việc nên anh không đến Tòa án làm việc được, chỉ thông tin lại cho gia đình nhất trí ly hôn với chị M, để nghị Tòa án căn cứ và các quy định của pháp luật xét xử vắng mặt anh tại phiên tòa.
Tại phiên tòa, đại điện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, xác định:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo hướng:
- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị M được ly hôn anh T .
- Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thanh X – sinh ngày 08/03/2014 cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị M - Về tài sản chung, vay nợ chung và các vấn đề khác: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị M phải nộp theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn là Lê Thị M khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Nguyễn Văn T cư trú tại khu 4, xã G, huyện Hạ Hòa nên đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay, anh T tiếp tục vắng mặt, không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Do vậy, Tòa án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T. [2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị M kết hôn với anh Nguyễn Văn T năm 2013 là hôn nhân hợp pháp bởi lẽ anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã G, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Hai bên chung sống hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, không còn quan tâm, yêu thương nhau do bất đồng quan điểm, hay xảy ra cãi nhau. Hai bên đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay, không có trách nhiệm với nhau. Xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình anh T cho thấy tình trạng hôn nhân của anh chị hiện đã rạn nứt, mỗi người một nơi, không còn đời sống chung.
Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, kéo dài, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị M xin ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân gia đình, cần chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Chị M và anh T có 01 con chung là Nguyễn Thanh X– sinh ngày 08/03/2014. Xét thấy, từ khi vợ chồng ly thân, chị M là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu X, vẫn đảm bảo cho cháu được sinh hoạt, ăn học ổn định. Anh T đi làm xa, thường xuyên vắng nhà. Do vậy, để đảm bảo tránh làm xáo trộn cuộc sống cho cháu, cần giao cháu cho chị M tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý và phù hợp với nguyện vọng của cháu.
Về cấp dưỡng nuôi con: Việc chị M không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là phù hợp, không trái pháp luật nên cần chấp nhận.
[2.3] Về tài sản chung, vay nợ chung: Anh chị không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị M phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
1- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị M được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
2- Về con chung: Giao cho chị Lê Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thanh X – sinh ngày 08/03/2014. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị M. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
3- Về tài sản chung, vay nợ chung: Không giải quyết
4 - Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Lê Thị M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai số AA/2020/0004833 ngày 16/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa. Chị M đã nộp đủ án phí.
Chị M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 23/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về