Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 113/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2021, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 07 tháng 04 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Đình H, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 9, xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai

- Bị đơn: Chị Ngô Thị Ngọc Hi, sinh năm 1998 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 9, xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 19/11/2021, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên toà nguyên đơn anh Trần Đình H trình bày:

Tôi và cô Ngô Thị Ngọc Hi tự nguyện tìm hiểu nhau một thời gian rồi đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào năm 2017. Vợ chồng chung sống hạnh phúc tới năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do cô Hi thường xuyên đi sớm về khuya, không chăm lo cho gia đình con cái, ngoài ra cô Hi có dấu hiệu không chung thủy, chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 8/2021 đến nay, tôi đã nhiều lần tha thứ và khuyên nhủ cô Hi quay về nhưng cô Hi không quay về. Nay tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với cô Hi.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung: Trần Ngô Tuệ Anh, sinh ngày 08/08/2018. Ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi con chung vì từ nhỏ con sống với tôi nhiều hơn và tôi có điều kiện nuôi con hơn và tôi có điều kiện nuôi con hơn cô Hi. Hiện tại tôi đang làm nhân viên thị trường TOSIBA, thu nhập và thời gian của tôi đảm bảo chăm sóc cho con cái.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu cô Hi cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chúng tôi tự thỏa thuận giải quyết với nhau, Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

- Bị đơn: Chị Ngô Thị Ngọc Hi trình bày:

Tôi và anh Trần Đình H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào năm 2017. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống và không chịu đựng được cảnh sống gần nhà chồng nhưng vì con cái nên tôi cố gắng. Mâu thuẫn đỉnh điểm vào tháng 8/2021, sau khi cãi nhau tôi đã bỏ đi và dẫn con đi và sống ly thân với anh H cho tới hiện tại. Nay anh H yêu cầu ly hôn với tôi, tôi thấy tình cảm vợ chồng đã không còn nên đồng ý ly hôn.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung: Trần Ngô Tuệ Anh, sinh ngày 08/08/2018. Tôi có nguyện vọng nuôi con chung. Hiện tại tôi đang làm việc tại Công ty Even Media Tài chính với lương tháng 4.000.000 đồng, ngoài giờ tôi còn phụ giúp chị gái tại nhà với thu nhập thêm 3.000.000 đồng. Bản thân tôi có thể đảm bảo điều kiện chăm sóc con cái. Ngoài ra tôi còn có thêm thu nhập khoảng 02 triệu đồng/tháng tiền lãi từ tiền gửi tiết kiệm của tôi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu anh H cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: Chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản chung và nợ chung.

Ngoài ra tôi không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Chư Păh, phát biểu quan điểm như sau:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 93, 94, 95, 96, 97, 195, 196, 203, 220 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa Thẩm phán, HĐXX, Thư ký tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình theo đúng quy định bộ luật Tố tụng dân sự.

-Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án; Nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

- Việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

*Về hôn nhân: Căn cứ Điều 55 Luật HNGĐ, đề nghị HĐXX công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trần Đình H với chị Ngô Thị Ngọc Hi .

*Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ; xét nguyện vọng của chị Ngô Thị Ngọc Hi được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, đề nghị HĐXX giao con chung Trần Ngô Tuệ Anh, sinh ngày 08/08/2018, cho chị Hi chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị Hi không yêu cầu anh H cấp dưỡng nên không xem xét.

*Tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: chị Hi, anh H không yêu cầu nên không xem xét.

* Về án phí: Buộc anh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Anh Trần Đình H có yêu cầu ly hôn và nuôi con chung với chị Ngô Thị Ngọc Hi, hai bên có nơi cư trú tại thôn 9, xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Vì vậy, đây là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

2.1. Về hôn nhân: Anh H và chị Hi tự nguyện yêu nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Hưng, Huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai vào ngày 14/4/2017, là hôn nhân hợp pháp theo đúng quy định của Luật hôn nhân gia đình. Trong quá trình hòa giải và tại phiên tòa anh Trần Đình H và chị Ngô Thị Ngọc Hi tự nguyện thỏa thuận tình ly hôn nên công nhận sự thỏa thuận này.

2.2. Về con chung: Anh H và chị Hi có 01 con chung là Trần Ngô Tuệ Anh, sinh ngày 08/08/2018. Anh H và chị Hi đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi con không thỏa thuận được với nhau.

Xét thấy về điều kiện nuôi con thì chị Hi có công việc làm thu nhập ổn định mỗi tháng hơn 04 triệu đồng, thêm thu nhập khoảng 02 triệu đồng/tháng tiền lãi từ tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, còn làm phụ thêm cho chị gái ngoài giờ hành chính thu nhập thêm khoảng 3.000.000đ. Tổng thu nhập của chị Hi khoảng hơn 09 triệu đồng/tháng, công việc hành chính tại công ty, 8h/ngày, ổn định về thời gian. Về chỗ ở, chị Hi có hợp đồng thuê nhà ở và chị Hi có sự hỗ trợ thêm của chị gái về về chăm sóc con và chỗ gửi con khi có yêu cầu đột xuất, nên thu nhập và thời gian của chị Hi đảm bảo nuôi con. Còn anh H làm công việc tư vấn bán hàng, địa điểm làm việc không cụ thể hay di chuyển, thời gian làm việc của anh H không ổn định. Hơn nữa cháu Tuệ Anh mới hơn 3 tuổi và là con gái nên cần sự chăm sóc của người mẹ là tốt hơn. Vì vậy, nên giao cháu Tuệ Anh cho chị Hi trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ngô Thị Ngọc Hi không yêu cầu anh Trần Đình H cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

2.4. Về tài sản chung và nợ chung: Anh H, chị Hi tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và quy định tại Điều 27 Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội anh Trần Đình H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 55, Điều 57, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Trần Đình H và chị Ngô Thị Ngọc Hi..

2. Về con chung: Giao con chung là Trần Ngô Tuệ Anh, sinh ngày 08/08/2018, cho chị Hi trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con thành niên có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hi không yêu cầu anh H cấp dưỡng nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

4 Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung: Anh H và chị Hi không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Buộc anh Trần Đình H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp trước đây theo biên lai số 0007059 ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Chư Păh. Anh H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/5/2022), các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xem xét phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về