Bản án về tranh chấp ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 88/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 342/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/02/2022; Quyết định hoãn phiên toà số 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08/3/2022; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1974; nơi cư trú: tổ 03, khóm TL, thị trấn VTT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, có đơn xin vắng mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1978; nơi cư trú: tổ 03, khóm TL, thị trấn VTT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 10 năm 2021 và trong quá trình giải quyết nguyên đơn Phạm Thị P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà và ông T tự tìm hiểu nhau sau đó kết hôn vào năm 2004, có đăng ký kết hôn vào ngày 05/01/2006 tại UBND xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Quá trình chung sống thời gian đầu ông bà hạnh phúc, đến sau này thì phát sinh mâu thuẫn do ông T có người phụ nữ khác bên ngoài. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Hoàng T.

Về quan hệ con chung: Ông bà có 01 con chung Nguyễn Hữu L, sinh ngày 14/02/2009. Ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu L, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Theo quy định của pháp luật.

- Bị đơn ông Nguyễn Hoàng T đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng đúng theo quy định pháp luật nhưng ông không gửi văn bản tự khai và không tham gia tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của ông.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện theo giấy triệu tập của Tòa án là vi phạm Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P, cho bà P ly hôn với ông T. Ông bà có 01 con chung Nguyễn Hữu L, sinh ngày 14/02/2009. Giao cháu L cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: bà P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông T, địa chỉ cư trú của ông T thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về thủ tục tố tụng: Bà Phạm Thị P và ông Nguyễn Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng bà P có đơn xin vắng mặt, ông T thì vắng mặt không có lý do chính đáng tại phiên toà lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà P, ông T theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Bà P và ông T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 05/01/2006 tại Ủy ban nhân dân xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nên được pháp luật Việt Nam công nhận hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp. Nay cuộc sống hôn nhân phát sinh mâu thuẫn và tình cảm vợ chồng không còn nên bà P yêu cầu được ly hôn với ông T.

[2.2] Tòa án đã thực hiện, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T để ông thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn tuy nhiên cho đến nay ông T vẫn vắng mặt không tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử và không gửi văn bản trình bày ý kiến, xem như ông tự từ bỏ quyền lợi của bản thân.

[2.3] Qua xác minh thì địa phương xác định ông T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ khóm TL, thị trấn VTT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Về tình trạng hôn nhân và mâu thuẫn cụ thể giữa ông bà thì địa phương cho biết ông T có người phụ nữ khác bên ngoài, ông T còn hay đi nhậu, cờ bạc và gây nợ nần. Ngoài ra còn mâu thuẫn nào khác hay không thì địa phương không rõ.

[2.4] Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau cũng như chia sẻ, hỗ trợ nhau trong cuộc sống nhưng trên thực tế giữa ông bà đã phát sinh mâu thuẫn, không còn sự thăm nom, chăm sóc lẫn nhau, nguyên nhân mâu thuẫn đã được chính quyền địa phương xác nhận. Nay bà P yêu cầu ly hôn do tình cảm vợ chồng không còn và bà từ chối việc Toà án tiếp tục hòa giải cũng như xin vắng mặt khi xét xử cho thấy sự cương quyết trong việc yêu cầu ly hôn, phía ông T thì trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải tạo điều kiện cho ông bà hàn gắn lại với nhau nhưng ông T vắng mặt cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến đến Tòa án, điều này chứng tỏ ông T không có thiện chí muốn hàn gắn đoàn tụ gia đình, không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của bà P. Như vậy cho thấy cuộc sống chung của ông bà không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nếu duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai do đó yêu cầu ly hôn của bà Phuợng với ông T là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.5] Về con chung: Ông bà có 01 con chung Nguyễn Hữu L, sinh ngày 14/02/2009, hiện con chung đang sống cùng bà P. Khi ly hôn, bà P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Ông T không gửi văn bản trình bày ý kiến về việc nuôi con chung cũng như đến Tòa án tham gia hòa giải nên không ghi nhận được ý kiến của ông T. Đồng thời cháu L cũng gửi ý kiến trình bày nguyện vọng muốn được tiếp tục sống cùng mẹ. Do đó để đảm bảo việc ổn định trong cuộc sống sinh hoạt, học tập cho con chung và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung là cháu Nguyễn Hữu L cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà P không có yêu cầu.

[2.6] Bà P và các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

[2.7] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: bà P phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông T không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị P.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Phạm Thị P ly hôn với ông Nguyễn Hoàng T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 02, quyển số 01 cấp ngày 05 tháng 01 năm 2006 của Ủy ban nhân dân xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho bà Phạm Thị P và ông Nguyễn Hoàng T không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về quan hệ con chung: Ông bà có 01 con chung tên Nguyễn Hữu L, sinh ngày 14/02/2009, hiện con chung đang sống cùng bà. Giao cháu L cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà P và các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Phạm Thị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003388 ngày 10/12/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Phú. Ông Nguyễn Hoàng T không phải chịu án phí sơ thẩm.

Bà Phạm Thị P và ông Nguyễn Hoàng T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:88/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về