Bản án về tranh chấp ly hôn số 67/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 67/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 227/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phan Quốc Phương K, sinh năm 1982.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1996. Cùng trú: Ấp 2, xã LA, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

(Anh K và chị M vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải vụ án, nguyên đơn anh Phan Quốc Phương K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị M tự nguyện tìm hiểu nhau và tiến tới hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LA, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Quá trình sống chung vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Hai vợ chồng không còn quan tâm nhau. Mặc dù nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Nay, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu được ly hôn với chị M.

Về con chung: Anh và chị M có một con chung là Phan Quốc Minh K1, sinh ngày 23/9/2018. Nếu ly hôn, anh giao cháu K1 cho chị M nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh K khai không có.

Tại bản tự khai bị đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị và anh K có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống do bất đồng quan điểm sống. Mặc dù được gia đình hai bên nhiều lần hàn gắn nhưng không giải quyết được những mâu thuẫn. Chi xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh K.

Về con chung: Chị và anh K có một con chung là Phan Quốc Minh K1, sinh ngày 23/9/2018, chị yêu cầu được nuôi con khi vợ chồng ly hôn và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị M khai không có;

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Phan Quốc Phương K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về sự có mặt và vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn anh Phan Quốc Phương K và bị đơn chị Nguyễn Thị M đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị M có nơi cư trú tại xã LA, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, anh K có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị M. Đây là tranh chấp ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Thành theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh K và chị M kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LA, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 75/2018 ngày 08 tháng 8 năm 2018 nên là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Quá trình chung sống, anh K và chị M có những bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường gây gổ, cãi vã nhau về vấn đề nuôi dạy con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không còn quan tâm đến nhau. Anh K yêu cầu được ly hôn, chị M cũng đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy điều kiện để anh K và chị M đoàn tụ chung sống với nhau là không có, tình trạng của vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, xét yêu cầu giải quyết ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của bị đơn nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Anh K và chị M có một con chung là Phan Quốc Minh K1, sinh ngày 23/9/2018. Anh K có yêu cầu giao cháu K1 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M có nguyện vọng được nuôi con.

Xét thấy, nguyên đơn và bị đơn thống nhất được vấn đề nuôi con chung. Do đó, giao cháu Phan Quốc Minh K1, sinh ngày 23/9/2018 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng: Chị M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét. [6] Nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[7] Quan điểm đại diện Viện kiểm sát huyện Long Thành phù hợp chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[8] Về Án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Anh Phan Quốc Phương K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 277, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Quốc Phương K đối với chị Nguyễn Thị M về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Cho anh Phan Quốc Phương K được ly hôn chị Nguyễn Thị M.

Về con chung: Giao cháu Phan Quốc Minh K1, sinh ngày 23/9/2018 cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh K và chị M vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, anh K có quyền đến thăm con không ai được ngăn cản. Khi cần thiết, các đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu, nên không xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Anh Phan Quốc Phương K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0005457 ngày 15/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành. Anh Phan Quốc Phương K đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 67/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về