Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 90/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1962. Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 02/6/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Bùi Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn P tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 09/9/1984. Vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh P thường xuyên rượu chè và đánh đập chị. Chị T và anh P đã sống ly thân từ đầunăm 2016 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Tháng 3 năm 2021 chị Th đã nộp đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung giải quyết ly hôn nhưng vì muốn cho anh P có cơ hội sửa chữa nên chị T đã rút đơn khởi kiện. Tòa án nhân dân huyện Hà Trung đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 12/2021/QĐST- HNGĐ ngày 09/4/2021. Tuy nhiên, anh P vẫn không hề thay đổi, tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn P.

Về con chung: Chị T khai, vợ chồng có 4 con chung, các cháu tên là Nguyễn Văn Q, sinh ngày 16/6/1984, cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 02/6/1987, cháu Nguyễn Văn A, sinh ngày 10/5/1990 và cháu Nguyễn Văn D, sinh ngày 06/5/1993, hiện cả bốn cháu Q, Th, A, D đã thành niên nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị Bùi Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Nguyễn Văn P nhiều lần đến Toà án để viết bản tự khai nhưng anh P không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh P.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị T đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh P là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh P không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh P cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh P là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sốnghòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị T, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh P thường xuyên rượu chè và đánh đập, mắng chửi chị dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Kết quả xác minh ngày 20/8/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống chị T và anh P xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh P thường xuyên rượu chè, vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Chính quyền địa phương đã hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Như vậy, đời sống chung vợ chồng giữa chị T và anh P luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Một thời gian dàivợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung giữa chị T và anh P đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị T được ly hôn với anh P là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Bùi Thị T khai, vợ chồng có 04 con chung, các cháu tên là Nguyễn Văn Q, sinh ngày 16/6/1984, cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 02/6/1987, cháu Nguyễn Văn A, sinh ngày 10/5/1990 và cháu Nguyễn Văn D, sinh ngày 06/5/1993, Chị T cũng xuất trình cho Tòa án giấy khai sinh của các cháu thể hiện các cháu Q, Th, A, D đã thành niên. Nay chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[4]. Về tài sản: Chị Bùi Thị T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn P.

2. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009383 ngày 21/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, anh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về