TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2021/TLST – HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Hà THị S, sinh năm 1991 (Vắng mặt) ĐKTT: ấp L, xã T, huyện D, tỉnh Bến Tre.
Chỗ ở hiện nay: Số A đường B, phường P, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chị S có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 10/02/2022.
- Bị đơn: Lê Văn Quyết L (M), sinh năm 1980 (Có mặt) Địa chỉ: ấp L, xã T, huyện D, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 04/3/2021, bản tự khai ngày 13/01/2022 và trong quá trình hòa giải, nguyên đơn chị S trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh L sau thời gian tự quen biết tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, hai bên đã tự nguyện tiến tới hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, cưới nhau năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thới Thuận vào năm 2009. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến tháng 9 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh L là người độc đoán, bạo lực, thường xuyên dùng lời lẽ mạt sát chị, anh thường xuyên cờ bạc, đá gà, không lo làm ăn, chị luôn chịu áp lực, nên từ tháng 9/2020 chị bỏ nhà đi Thành phố Hồ Chí Minh làm việc kiếm sống và ly thân đến nay.
Từ lúc ly thân đến nay chị đã nhiều lần cho anh L cơ hội để sửa đổi hàn gắn, từ hòa giải tại nhà cho đến khi đến Tòa án nhưng anh vẫn không thay đổi, nên nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh L để giải thoát cho chị khỏi cuộc hôn nhân mà không đem lại hạnh phúc.
- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Lê Dung H, sinh ngày 01/4/2010, hiện đang sống với anh L, khi ly hôn chị đồng ý để con chung cho anh L nuôi và chị không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: không có.
* Tại bản tự khai ngày 13/01/2022, biên bản hòa giải và tại phiên Tòa bị đơn anh L trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất phần trình bày của chị S về thời gian quen biết và kết hôn nhưng nguyên nhân mâu thuẫn theo anh xác định chỉ mâu thuẫn nhỏ về vấn đề tiền bạc và có 01 phần như lời chị S trình bày, anh thừa nhận mình có cờ bạc, đá gà và từ tháng 9/2020 chị bỏ nhà đi Thành phố Hồ Chí Minh làm việc không quay về, ly thân từ tháng 9/2020 đến nay, anh không biết địa chỉ ở đâu để rước về hàn gắn.
Nay anh xác định vẫn còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn.
- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Lê Dung H, sinh ngày 01/4/2010, hiện đang sống với anh, anh đồng ý nuôi chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: không có.
* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt là phù hợp quy định pháp luật.
- Về nội dung:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị S đối với anh L. Về con chung: Đề nghị giao cháu Lê Dung H, sinh ngày 01/4/2010 cho anh L nuôi dưỡng. Ghi nhận anh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1]. Nguyên đơn chị Hà THị S có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 10 tháng 02 năm 2022, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị S là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh L cưới nhau vào năm 2009 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thới Thuận vào năm 2009 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị S và anh L được công nhận hợp pháp.
Nay chị S yêu cầu ly hôn, anh L không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ con. Hội đồng xét xử xét thấy:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị S và anh L đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vấn đề tiền bạc, anh L cờ bạc, đá gà, không lo làm ăn, nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi dù chị đã khuyên năn nhưng anh L vẫn không sửa đổi và đã ly thân từ tháng 9 năm 2020 đến nay, chị S bỏ đi thành phố làm kiếm sống và cắt đứt liên hệ không cho anh L biết nơi ở.
Anh L xác định còn thương vợ con nên muốn xin cơ hội hàn gắn, Tòa án cũng đã nhiều lần tạo điều kiện cho hai bên thêm thời gian để tìm cách hàn gắn lại tình cảm, nhưng cho đến nay vẫn không thể hàn gắn lại được. Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị S và anh L đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh và chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị S là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị S và anh L có 01 con chung tên Lê Dung H, sinh ngày 01/4/2010, hiện đang sống với anh L, khi ly hôn chị đồng ý để con chung cho anh L nuôi và chị không cấp dưỡng nuôi con, anh L đồng ý.
Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu H, xét thấy từ trước đến nay cháu H sống với anh L, việc anh nuôi con chung vẫn phát triển bình thường. Mặt khác, tại thời điểm giải quyết ly hôn giữa chị S và anh L thì cháu đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với anh L; anh L cũng có nguyện vọng được nuôi con, nên để nhằm ổn định về tinh thần của con chung anh và chị và phù hợp với nguyện vọng của cháu H, cần để cháu H cho anh L nuôi dưỡng cũng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu để con chung cho anh L nuôi.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L nuôi con chung nhưng không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.
[5]. Về tài sản chung: Chị S và anh L khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.
[6]. Về nợ chung: Chị S và anh L khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.
[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chị Hà THị S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 228 ; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hà THị S đối với anh Lê Văn Quyết L (M).
Cho ly hôn giữa chị Hà THị S và anh Lê Văn Quyết L (M).
Quan hệ hôn nhân giữa Hà THị S và anh Lê Văn Quyết L (M) chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung Lê Dung H, sinh ngày 01/4/2010 cho anh Lê Văn Quyết L (M) trực tiếp nuôi dưỡng.
2.2. Ghi nhận sự tự nguyện anh Lê Văn Quyết L (M) nuôi con chung không yêu cầu chị Hà THị S cấp dưỡng nuôi con.
Chị Hà THị S không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Anh Lê Văn Quyết L (M) trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị Hà THị S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.
4. Về nợ chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Chị Hà THị S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị S đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003316 ngày 26 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, chị Hà THị S đã nộp đủ án phí.
Anh Lê Văn Quyết L (M) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với chị Hà THị S vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 43/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 43/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về