Bản án về tranh chấp ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 62/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về việc “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2021/QĐ-ST ngày 07 tháng 4 năm 2021, giữa:

1.Nguyên đơn: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1990, địa chỉ: Đội 21, thôn XN, phường NB, thị xã NS, tỉnh TH.

2. Bị đơn: Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1989; địa chỉ: 780/8/49B BG, tổ 16, Phường 10, thành phố VT, tỉnh BR-VT.

(Bà H vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; ông N vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Vũ Thị H trình bày:

Bà và ông Hoàng Văn N quen biết nhau vào đầu năm 2016, đến tháng 5 năm 2016, bà và ông N đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 12-5-2016. Ngay sau khi kết hôn, vợ chồng bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông N sống không có trách nhiệm với gia đình, đam mê chơi cờ bạc, không phụ giúp kinh tế với bà để nuôi con chung. Ngoài ra, ông N còn dùng vũ lực gây tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của bà dẫn đến tình cảm vợ chồng bà mâu thuẫn nghiêm trọng, bà và ông N không cùng chung sống từ năm 2020 đến nay. Vì vậy, bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông N, yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Hoàng Văn N.

Về con chung, cấp dưỡng: Bà và ông N có 01 con chung là cháu Hoàng Anh Th, sinh ngày 30-01-2017; bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Vũ Thị H vắng mặt, có đơn giữ nguyên các ý kiến trình bày ở giai đoạn trước khi xét xử và xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bị đơn ông Hoàng Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu đã tiến hành các thủ tục tống đạt đối với nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định nhưng nguyên đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ các quy định pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình, kết quả xác minh của Tòa án, chứng cứ trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Vũ Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Hoàng Văn N nên đây là vụ án "tranh chấp ly hôn" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn ông Hoàng Văn N có nơi cư trú tại thành phố Vũng Tàu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn bà Vũ Thị H, bị đơn ông Hoàng Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập để tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

[2.1] Bà H và ông N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 12-5-2016 nên là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà H trình bày: Ngay sau khi kết hôn, vợ chồng bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông N sống không có trách nhiệm với gia đình, đam mê chơi cờ bạc, không phụ giúp kinh tế với bà để xây dựng gia đình, nuôi con chung. Ngoài ra, ông N còn dùng vũ lực gây tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của bà dẫn đến tình cảm vợ chồng bà mâu thuẫn nghiêm trọng, bà và ông N không cùng chung sống từ năm 2020 đến nay. Vì vậy, bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông N.

Kết quả xác minh của Tòa án với địa phương nơi bà H, ông N sinh sống có nội dung: Vấn đề mâu thuẫn giữa bà H, ông N là có thật, nguyên nhân mâu thuẫn địa phương không nắm rõ vì bà H không trình báo và yêu cầu hòa giải. Từ năm 2020, bà H đã đưa cháu Hoàng Anh Th đi nơi khác sinh sống. Những nội dung xác minh trên phù hợp với lời trình bày của bà H. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng và triệu tập ông N đến làm việc nhưng ông N không tham dự cũng như không có ý kiến phản hồi, cho thấy ông N không quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của bà H và không có thiện chí khắc phục mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình.

Xét thấy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế, bà H xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông N và giữ nguyên ý kiến trình bày, yêu cầu khởi kiện của mình, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H với ông N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân của bà H với ông N là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung, cấp dưỡng: Bà H với ông N có 01 con chung là Hoàng Anh Th sinh ngày 30-01-2017; bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng. Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con của bà H thì thấy: cháu Hoàng Anh Th còn nhỏ, đang được bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, ông N cũng không có ý kiến yêu cầu gì về việc nuôi con chung; xét việc bà H không yêu cầu ông N cấp dưỡng thì thấy đây là ý kiến tự nguyện và sự tự nguyện này không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên căn cứ Khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc bà H được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Thư, ông N không cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Ông N không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228, Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H.

Về quan hệ hôn nhân: bà Vũ Thị H được ly hôn với ông Hoàng Văn N.

Về con chung, cấp dưỡng: bà Vũ Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hoàng Anh Th sinh ngày 30-01-2017 (ba mươi tháng một năm hai nghìn không trăm mười bảy); ông Hoàng Văn N không cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ của con hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: bà Vũ Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2.Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2020/0007668 ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu; bà H đã nộp xong án phí.

Ông Hoàng Văn N không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về