Bản án vê tranh chấp ly hôn số 355/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM ,THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 355/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2021 VÊ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 213/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021 về việc tranh chấp Xin ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXX-ST ngày 20 tháng 10 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng N, sinh năm 1964; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số 20, ngõ 128 phố HVT, tổ 12, phường KM, quận TX, TP Hà Nội. Nghề nghiệp: Cán bộ về hưu. “Có mặt”

Bị đơn: Ông Nguyễn Thế D, sinh năm 1955; ĐKHKTT: Thôn ĐV, xã YT, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Nơi cư trú tự khai tại phiên tòa: Số 20, ngõ 128 phố HVT, tổ 12, phường KM, quận TX, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Cán bộ về hưu. “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nhận ngày 21/5/2021 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa nguyên đơn bà Vũ Thị Hồng N trình bày: Tôi và ông Nguyễn Thế D, sinh năm 1955 có tìm hiểu nhau khoảng 2-3 năm thì tự nguyện kết hôn ngày 28/5/1999 tại UBND xã YT, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sinh sống tại khu tập thể vật tư bưu điện thuộc DV, xã Y, Gia Lâm, Hà Nội một thời gian ngắn thì về nhà riêng của tôi tại số nhà 20, ngõ 128, phố HVT, quận TX, TP Hà Nội để sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng vài tháng đầu rồi xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tôi bất đồng trong cách sinh hoạt chung, ông D rất khác người nên chúng tôi thường xuyên cãi vã nhau. Mâu thuẫn đỉnh điểm là từ năm 2014, ông D không đi làm ở nhà và trong thời gian đó không giúp đỡ gì vợ con, khi uống rượu vào còn hay chửi mắng tôi, tôi là trụ cột trong gia đình, ông D không giúp đỡ vợ con bất cứ việc gì, ngày ngày chỉ đi chơi bóng chuyền, họa hoằn lắm mới cắm cho tôi nồi cơm, con đi học ông D ở nhà cũng không đưa đi, nếu có đưa đi là cằn nhằn nói vợ nói con. Ngoài ra ông D còn luôn nghi ngờ tôi, nói năng xúc phạm vợ con làm cho gia đình và người thân luôn buồn bực mệt mỏi. Lúc đó vì con tôi còn nhỏ nên tôi đã phải nín nhịn rất nhiều vì ngại hàng xóm biết nên không cãi nhau với ông D vì vậy ông D ngày càng lấn tới và nhiều lần đòi ly dị tôi. Tôi đã quá mệt mỏi, không chịu đựng được sự bất công nhưng vì con tôi đã cố gắng đi làm tối ngày để kiếm tiền nuôi con và gia đình. Trong thời gian mâu thuẫn, tôi vẫn có trách nhiệm với gia đình nhà chồng nhưng đổi lại tôi không nhận được tình cảm yêu thương từ phía ông D. Đến tháng 11/2020 mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng lý do cũng bắt nguồn từ việc sinh hoạt trong gia đình, tôi và ông D chính thức ly thân từ đó cho đến nay, tôi ở TX, ông D về YT, Gia Lâm sinh sống cùng mẹ đẻ là cụ Nguyễn Thị H năm nay khoảng 97 – 98 tuổi và em gái của ông D là bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1965. Từ tháng 11/2020 thỉnh thoảng ông D mới về TX lấy đồ đạc cá nhân xong đi. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Nguyễn Thế D. Ông D trình bày không muốn ly hôn vì 3 lý do: mẹ già yếu không muốn mẹ biết, ông D đã ly hôn 1 lần nên sợ mang tiếng.

Về con chung: Tôi và ông Nguyễn Thế D có 01 con chung tên Nguyễn PA, sinh ngày 08/9/1999. Hiện nay cháu PA đã trưởng thành nên cháu ở với ai là do cháu tự quyết định; Về con riêng: Tôi không có con riêng. Ông D có 04 con riêng là cháu Nguyễn Thế Ph, sinh năm 1977; cháu Nguyễn Thị L, sinh năm 1979; cháu Nguyễn Thế C, sinh năm 1984; cháu Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1987. Các con riêng của ông D đã trưởng thành, tự lo cuộc sống của mình, tôi không có ý kiến gì về con riêng của ông D.

Về tài sản chung và công nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

®¬n ông Nguyễn Thế D tr×nh bµy: Về điều kiện đăng ký kết hôn giữa tôi và cô N, tôi hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của cô N. Sau khi kết hôn cho đến nay vợ chồng tôi không mâu thuẫn, vợ chồng tôi vẫn hạnh phúc như bao gia đình khác, đôi khi vợ chồng tôi cũng có cãi nhau những việc vặt trong sinh hoạt hàng ngày. Hàng ngày tôi cũng uống rượu ngày hai bữa, nhưng không say xỉn chửi bới như cô N nói. Trước đây tôi vẫn đi làm, nhưng từ khoảng năm 2014 tôi nghỉ không đi làm nữa, thì hàng ngày tôi ở nhà lo cơm nước nhà cửa, con cái, cô N đi làm về chỉ việc ăn cơm. Mãi đến hơn 01 năm nay cô N mới nghỉ hưu. Tôi không biết vì lý do gì cô N xin ly hôn, vì tình cảm vợ chồng của tôi bình thường. Ngày 11/11/2020, tôi và cô N xảy ra lời ra tiếng vào vì lý do cô N đón mẹ về ở từ lâu rồi, trong nhà có người già nên sợ nền nhà có nước thì trơn ngã, hôm đó tôi có tưới cây từ sáng thì nền nhà cũng đã khô, nhưng không biết sao cô N thấy nền nhà ướt sợ mẹ đẻ cô ý ngã thì chửi tôi, chửi cả mẹ tôi, tôi thấy cô N vậy thì chỉ bảo cô láo vừa thôi, chứ chúng tôi không cãi chửi nhau, không đánh nhau bao giờ. Sau hôm đó thì tôi về YT chăm mẹ đẻ tôi vì mẹ đẻ tôi già yếu lâu rồi. Từ đó, một tuần tôi sống ở YT 03 ngày, sống ở TX 04 ngày, từ tháng 11/2020 đến nay tôi với cô N không còn sinh hoạt vợ chồng, một tuần tôi ăn cơm với cô N 3-4 bữa. Còn lại tôi ăn ở YT với mẹ đẻ tôi. Tôi thấy cô N vẫn còn quan tâm đến tôi, đăng ký cho tôi tiêm phòng tại TX nơi tôi sinh sống, hôm qua tôi mới đi tiêm lại mũi 2, hôm nay gặp tôi cô N vẫn hỏi tôi đi tiêm về có sốt không. Nhưng chúng tôi không thường xuyên gọi điện, quan tâm hỏi thăm nhau, vì mỗi người phải chăm một mẹ. Khi tôi về TX, cô N vẫn chuẩn bị quần áo cho tôi mang đi. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, tôi không đồng ý ly hôn với cô N. Việc tôi sinh sống thường xuyên tại TX từ năm 1999 đến nay ai cũng biết, tôi có đăng ký tạm trú tại TX nhưng giờ tôi không có tài liệu nào chứng minh để xuất trình cho Tòa án, tôi đã gặp cảnh sát khu vực để xin xác nhận, anh Sơn nhận đơn của tôi, đã tự tay viết xác nhận tôi có tạm trú, nhưng sau đó anh Sơn lại không đưa cho tôi, tôi đòi mãi thì đến hôm vừa rồi lãnh đạo phường mới trả tôi bản bị tẩy xóa phần xác nhận, hôm nay tôi nộp cho Tòa án. Tôi không hiểu về lý do gì tôi có đăng ký tạm trú tại đó nhưng công an phường không xác nhận cho tôi, còn tôi sống tại đó thì người dân xung quanh ai cũng biết. Đến nay tôi không còn tài liệu nào khác để chứng minh tôi sinh sống thường xuyên tại TX để nộp Tòa án. Tháng 11/2020 cô N có nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án TX, nhưng không biết vì lý do gì mà Tòa án TX không giải quyết, lý do gì cô N nộp đơn tại Tòa án TX tôi không rõ, vì chúng tôi không có mâu thuẫn. Khi cô N nộp đơn tại Tòa án TX thì mẹ để tôi ốm nên tôi về YT chăm mẹ đẻ nhưng tôi vẫn đi lại hai nhà thường xuyên. Mẹ tôi ốm bà N vè thăm được 03 lần nhưng không chăm sóc cụ, không trông nom cụ được ngày nào. Tôi về mẹ đẻ ở YT thì bà N thỉnh thoảng có gọi điện cho người em ruột của tôi hỏi thăm tình hình của mẹ tôi và tôi, hiện nay tôi thường xuyên về YT để chăm sóc mẹ đẻ tôi ốm, còn tôi vẫn sinh sống tại TX, vì nhà tôi ở bên đó. Địa phương xã YT xác nhận tôi sinh sống tại YT từ tháng 01/2021 là không đúng, công an phường KM xác nhận tôi không còn sống tại đó từ tháng 3/2021 là không đúng, tôi sẽ làm đơn khiếu nại về việc này. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng còn, tôi không đồng ý ly hôn với cô N.

Về con chung: Tôi và cô Vũ Thị Hồng N có 01 con chung là cháu Nguyễn PA, sinh ngày 08/9/1999. Hiện nay cháu PA đã trưởng thành trong trường hợp ly hôn cháu PA muốn ở với ai là do cháu tự quyết định; Về con riêng: Tôi có có 04 con riêng là cháu Nguyễn Thế Ph, sinh năm 1977; cháu Nguyễn Thị L, sinh năm 1979; cháu Nguyễn Thế C, sinh năm 1984; cháu Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1987. Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con riêng;

Về tài sản chung và công nợ chung vợ chồng: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trước đây tôi có trình bày cô N lừa tiền bạc của tôi, nhưng tôi chưa có tài liệu để yêu cầu, sau này có tôi sẽ đề nghị cơ quan nhà nước xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; Thẩm phán tiến hành tố tụng, xác định quan hệ pháp luật đúng; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật, đảm bảo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng; Nguyên đơn và bị đơn chấp hành pháp luật. Về ý kiến giải quyết vụ án: Bà N và ông D có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do bà N và ông D đã không còn chung sống với nhau theo như xác nhận của Công an phường KM từ tháng 03/2021 đến nay, ông D và bà N đều đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng quy định tại Điều 19, 56 của Luật hôn nhân và gia đình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N, cho bà N được ly hôn ông D; Về con chung: Bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D có 01 con chung tên Nguyễn PA, sinh năm 1999. Hiện nay chị PA đã trưởng thành đủ 18 tuổi vì vậy đề nghị HĐXX không xem xét. Về con riêng của ông D: Bà N và ông D không yêu cầu nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Bà N và ông D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí, yêu cầu của bà N được chấp nhận nên bà N phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Nhận định về tố tụng:

+ Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án do bà Vũ Thị Hồng N có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS. Về thẩm quyền nơi cư trú của bị đơn: Hồ sơ khởi kiện thể hiện bị đơn có hộ khẩu thường trú tại: Thôn ĐV, xã YT, huyện Gia Lâm, Hà Nội, TAND huyện Gia Lâm đã tiến hành thụ lý vụ án là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS. Quá trình giải quyết vụ án, ông D cho rằng mình có nơi cư trú tại số 20, ngõ 128, phố HVT, tổ 12, phường KM, quận TX, thành phố Hà Nội chứ không phải sinh sống thường xuyên tại thôn ĐV, xã YT, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bà N trình bày từ 11/11/2020 ông D đã về YT sinh sống vì hai vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, lời khai này của bà N phù hợp về cơ bản với Công an phường KM cung cấp ông D không sinh sống tại địa chỉ số 20, ngõ 128, phố HVT từ tháng 03/2021, phù hợp với chính quyền thôn ĐV, xã YT cung cấp ông D về sinh sống tại địa phương từ tháng 01/2021, tại phiên tòa ông D xuất trình 01 Đơn xin xác nhận nơi sinh sống và tạm trú gửi Công an phường KM, tại phần xác nhận của Công an phường đã bị tẩy xóa không nhìn rõ, chưa được xác nhận, nên đến nay không có tài liệu nào chứng minh ông D có đăng ký tạm trú, sinh sống tại phường KM, chỉ có căn cứ xác định nơi cư trú của ông D từ tháng 01/2021 đến nay là thôn ĐV, xã YT, huyện Gia Lâm, Hà Nội, vụ án thụ lý ngày 14/6/2021, thời điểm ông D có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi thường xuyên sinh sống do vậy TAND huyện Gia Lâm tiếp tục giải quyết và đưa vụ án ra xét xử là đúng thẩm quyền về nơi cư trú của bị đơn theo điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.

+ Quá trình giải quyết vụ án ông D có đơn trình bày và kiến nghị về đơn xin ly hôn của bà N với nội dung: bà N lừa đảo tiền của và nhà của ông, nhưng không có tài liệu chứng cứ gì, đề nghị Tòa án đi thu thập. Tại buổi hòa giải và tại phiên tòa, Tòa án đã giải thích về thẩm quyền giải quyết tố cáo lừa đảo cho ông D nếu ông có tài liệu, chứng cứ thì gửi đơn tố cáo bà N (kèm chứng cứ) đến cơ quan công an có thẩm quyền để giải quyết, nhưng đến tại phiên tòa, ông D nói ông sẽ nộp đơn đến cơ quan công an sau. Việc ông D trình bày bà N lừa đảo nhưng không có tài liệu kèm theo chứng minh nên Tòa án đã không chuyển đơn đến cơ quan công an xem xét giải quyết là có căn cứ, nội dung này đã được Tòa án xem xét giải quyết tại buổi hòa giải và tại phiên tòa ông D đều trình bày ông sẽ gửi đơn đến công an yêu cầu xem xét sau, và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết tài sản chung vợ chồng của ông và bà N khi ly hôn, nên HĐXX không giải quyết những nội dung tố cáo lừa đảo trong Đơn trình bày và kiến nghị về Đơn xin ly hôn của ông D, chỉ xem xét các phần trình bày khác trong đơn khi giải quyết vụ án xin ly hôn là có căn cứ.

[2]. Nhận định về tình cảm: Bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D có đăng ký kết hôn ngày 28/5/1999 tại Ủy ban nhân dân xã YT, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, bà N đã xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn bản gốc nên xác định đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

- Xét về mâu thuẫn vợ chồng: Quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa bà N cho rằng vợ chồng sau khi kết hôn thì bắt đầu mâu thuẫn do bất đồng về thói quen sinh hoạt trong gia đình cho đến ngày 11/11/2020 thì trở nên trầm trọng và vợ chồng đã không còn sống chung với nhau, bà N ở TX, ông D về ĐV, YT, Gia Lâm. Ông D cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc cho đến nay, không có mâu thuẫn, vợ chồng chỉ có mâu thuẫn nhỏ nhặt nhà nào cũng có, ngày 11/11/2020 vợ chồng không cãi nhau, cô N nói láo thì ông D chỉ bảo cô N láo vừa thôi, rồi ông về YT, Gia Lâm chăm mẹ già yếu, 1 tuần ông ở YT 3 ngày, ở TX 4 ngày, vợ chồng không còn sinh hoạt vợ chồng từ tháng 11/2020 đến nay, lý do là do ông và bà N đều phải chăm mẹ ở hai nơi khác nhau nên vợ chồng không sinh hoạt vợ chồng. Tuy nhiên, lời khai của ông D không có căn cứ, khi con gái chung của ông D bà N hiện 22 tuổi cung cấp bố mẹ thường xuyên cãi nhau 10 năm nay bằng mặt không bằng lòng, bất đồng quan điểm, thấy bố mẹ không còn tình cảm với nhau, từ ngày 11/11/2020 ông D không còn chung sống với bà N nên lời khai của bà N phù hợp với lời khai của chị PA người sống chung nhà với bà N ông D, phù hợp với Công an xã YT cung cấp là ông D về sống ở địa phương từ tháng 01/2021 đến nay, nên xác định ông D và bà N đã không còn chung sống với nhau từ tháng 01/2021 đến nay, cả bà N và ông D đều đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng là phải yêu thương, chăm sóc, sống chung với nhau theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình nên đã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho bà N được ly hôn với ông D là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, mặc dù ông D luôn cho rằng mình vợ chồng còn hạnh phúc nhưng không có căn cứ nên không chấp nhận yêu cầu không cho ly hôn của ông D là đảm bảo quyền lợi cho cả bà N và ông D.

[3]. Nhận định về con chung: Bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D có 01 con chung tên Nguyễn PA, sinh ngày 08/9/1999. Xét cháu PA đã 22 tuổi, các bên không yêu cầu Tòa án xem xét quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, nên HĐXX không xem xét giải quyết việc chăm sóc và nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn là có căn cứ.

Về con riêng: ông D có 04 con riêng, ông D bà N không yêu cầu gì khác, HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Bà N và ông D không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết là có căn cứ. Quá trình giải quyết ông D có nêu phần tài sản chung vợ chồng có tài sản chung, nhưng ông không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên khi giải quyết ly hôn, Tòa án không xem xét giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng trong vụ án này, nếu sau này ông D có đơn yêu cầu xem xét thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

[5]. Nhận định về án phí ly hôn sơ thẩm: Yêu cầu xin ly hôn của bà N được chấp nhận, bà N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm là đúng với quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các vào Điều 19, 51, 55, 56, 58, 70 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D. Xử cho bà Vũ Thị Hồng N được ly hôn với ông Nguyễn Thế D.

2. Về con chung: Bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D có 01 con chung tên Nguyễn PA, sinh ngày 08/9/1999. Cháu Nguyễn PA đã trưởng thành, HĐXX không xem xét quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con của ông D bà N với chị PA.

Về con riêng: ông D có 04 con riêng, HĐXX không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Vũ Thị Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, bà N đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai số AA/2020/0072646 ngày 14/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, nay chuyển thành án phí ly hôn, ghi nhận bà N đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bà Vũ Thị Hồng N và ông Nguyễn Thế D có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án vê tranh chấp ly hôn số 355/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:355/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về