Bản án về tranh chấp ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 368/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp Xin ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXX-ST ngày 06 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; HKTT và nơi cư trú: Căn hộ 2618, Tòa S1.**, khu đô thị VHO, xã ĐT, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do. “Có mặt”.

Bị đơn: Anh Đỗ Văn S, sinh năm 1977; HKTT: Căn hộ 2618, Tòa S1.**, khu đô thị VHO, xã ĐT, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Nơi ở: Phòng 6--, nhà D, khu đô thị ĐX, xã CB, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; “Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2021 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Tôi và anh Đỗ Văn S có tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã NT, huyện NT, tỉnh Nam Định ngày 17/10/2000. Sau khi kết hôn, chúng tôi thuê nhà ở PD, huyện TL, Hà Nội ăn ở sinh sống và bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tôi bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong cuộc sống vì vậy thường xuyên vợ chồng tôi xảy ra cãi vã. Sau những lần cãi vã vợ chồng tôi cũng đã ngồi lại với nhau để tìm cách giải quyết các mâu thuẫn và cũng được giải tỏa phần nào. Đến năm 2016, vợ chồng tôi chuyển về phòng 6--, D, khu đô thị ĐX, huyện Gia Lâm để ăn ở sinh sống. Thời gian sinh sống tại đây vợ chồng tôi lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S thường xuyên chơi bời cờ bạc dẫn đến nợ nần. Tôi cũng có khuyên bảo anh S nhưng anh S không nghe mà vẫn cứ ham mê chơi cờ bạc mặc dù tôi đã rất nhiều lần khuyên anh S. Việc mâu thuẫn của vợ chồng tôi hai bên gia đình đều biết nhưng chúng tôi đã trưởng thành nên để chúng tôi tự quyết định. Đến tháng 03/2021 vợ chồng tôi cùng các con chuyển ra Căn hộ số 2618, Tòa S1.** VHO, xã ĐT, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội để ăn ở và sinh sống, anh S vẫn chứng nào tật đấy ham mê cờ bạc và hồi tháng 10/2021 khi anh S chơi cờ bạc bị công an bắt và tôi đã phải ra viết đơn bảo lãnh để cho anh S về, đến hôm nay thì vụ án đánh bạc đó cũng sắp xử. Vợ chồng tôi mặc dù sống chung nhà nhưng mỗi người ở một phòng, không quan hệ sinh lý với nhau từ rất lâu tôi không nhớ rõ là năm bao nhiêu. Ngày 26/11/2021, anh S về nhà có những lời lẽ đe dọa và nhục mạ tôi, tôi có gọi công an và bảo vệ của tòa nhà lên giải quyết nhưng khi bảo vệ tòa nhà lên giải quyết việc anh S gây mất trật tự tòa nhà và đợi công an đến thì anh S bỏ đi. Hiện nay anh S đang ở phòng 6--, D, khu đô thị ĐX, huyện Gia Lâm từ ngày 26/11/2021 cho đến nay. Giữa tháng 6/2019 chúng tôi bắt đầu ly thân, dù sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, đến khoảng tháng 4/2021 thì không sống chung nhà từ đó đến nay, tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh Đỗ Văn S. Đây là lần đầu tôi nộp đơn xin ly hôn anh S tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, ngoài ra tôi chưa từng giải quyết ly hôn tại Tòa án nào khác. Về con chung: Tôi và anh S có 02 con chung tên Đỗ Khánh L, sinh ngày 05/11/2001 và Đỗ Hà A, sinh ngày 27/02/2016. Hiện nay cháu L và cháu Hà A đang ăn ở và sinh sống cùng tôi căn hộ số 2618, Tòa S1.** VHO, xã ĐT, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Khi ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà A. Trong trường hợp tôi trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà A tôi không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng phí tổn nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

BÞ ®¬n anh Đỗ Văn S vắng mặt, có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình chuẩn bị xét xử, anh S tr×nh bµy: Chúng tôi có tìm hiểu nhau khoảng 02 năm thì tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã NT, huyện NT, tỉnh Nam Định ngày 17/10/2000. Trong cuộc sống hôn nhân vợ chồng tôi bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân do chị H có người đàn ông khác ở bên ngoài. Vợ chồng tôi đã ly thân nhau từ tháng 5/2021 cho đến nay. Nay được biết chị H làm đơn ly hôn tôi, tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, nhưng không đồng ý ly hôn. Về con chung: Tôi và chị H có 02 con chung tên Đỗ Khánh L, sinh ngày 05/11/2001 và Đỗ Hà A, sinh ngày 27/02/2016. Hiện cháu L đang sinh sống cùng chị H, cháu Hà A lúc sống cùng tôi, lúc sống cùng chị H. Trong trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng nuôi con thì tôi đồng ý nhưng với yêu cầu chị H không được ngăn cản quyền gặp gỡ và thăm nom con cháu Hà A với tôi. Về cấp dưỡng nuôi con chung do tôi và chị H tự thỏa thuận với nhau. Về tài sản chung và nợ chung tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, của Thẩm phán, của Thư ký, của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS. Về ý kiến giải quyết vụ án: Chị H và anh S có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên do chị H và anh S đã không còn chung sống với nhau từ tháng 5/2021 đến nay là vi phạm Điều 19, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, anh S xác định tình cảm vợ chồng đã hết nhưng không đồng ý ly hôn. Xét chị H anh S đều vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, nên đề nghị cho chị H được ly hôn anh S. Về con chung: Chị H và anh S có 02 con chung, cháu L đã trưởng thành, các bên không yêu cầu, đề nghị tòa án không xem xét đối với cháu L, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà A khi ly hôn, anh S đồng ý cho chị H nuôi dưỡng cháu Hà A. Xét nên giao cháu Hà A cho chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của chị H, anh S và cháu Hà A. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên tạm hoãn cấp dưỡng của anh S cho chị H. Về tài sản chung các bên không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí, yêu cầu của chị H được chấp nhận nên chị H phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Nhận định về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết loại việc của Tòa án do chị H có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại điểm a khoản1 Điều 35 của BLTTDS, bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã ĐT, huyện Gia Lâm và hiện đang sinh sống tại Phòng 6--, nhà D, khu đô thị ĐX, xã CB, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo lãnh thổ và cấp Tòa án.

[2]. Nhận định về tình cảm:

- Xét về việc đăng ký kết hôn: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn S có đăng ký kết hôn ngày 17/10/2000 tại Ủy ban nhân dân xã NT, huyện NT, tỉnh Nam Định, chị H đã xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn bản gốc, nên xác định đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

- Xét về mâu thuẫn vợ chồng: Chị H trình bày vợ chồng mâu thuẫn từ sau khi cưới đến nay, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh S chơi cờ bạc nợ nần. Anh S trình bày vợ chồng có mâu thuẫn do chị H có người đàn ông khác bên ngoài. Địa phương cung cấp không rõ mâu thuẫn vợ chồng. Nhưng cả chị H và anh S đều thống nhất tình cảm vợ chồng không còn, đã ly thân từ tháng 5/2021 đến nay là các tình tiết các đương sự đều thừa nhận không phải chứng minh theo Điều 92 của BLTTDS, nên xác định chị H anh S không còn tình cảm vợ chồng, không còn sống chung với nhau là vi phạm nghĩa vụ vợ chồng theo Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình nên cho chị H được ly hôn với anh S theo Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình là có căn cứ.

[3]. Nhận định về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn S có 02 con chung, tên Đỗ Khánh L, sinh ngày 05/11/2001 và Đỗ Hà A, sinh ngày 27/02/2016.

Xét cháu L đã trưởng thành, các bên không yêu cầu Tòa án xem xét việc nuôi dưỡng cháu L, nên HĐXX không xem xét giải quyết quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con giữa chị H anh S và cháu Linh.

Xét việc nuôi dưỡng cháu Hà A: Chị H có nguyện vọng nuôi cháu Hà A, anh S nhất trí để chị H nuôi dưỡng cháu Hà A, cháu Hà A có nguyện vọng được sống chung với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn. Xét chị H có nơi sinh sống ổn định, có thu nhập, cháu Hà A hiện đang sống với chị H và có nguyện vọng tiếp tục được chung sống với mẹ, anh S cũng nhất trí nên giao cháu Hà A cho chị H được chăm sóc và nuôi dưỡng sau khi ly hôn là đảm bảo quyền lợi chính đáng của cháu Hà A theo Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh S cho chị H là có căn cứ.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Chị H và anh S không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết là có căn cứ.

[5]. Nhận định về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm là đúng với quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 92, khoản 4 Điều 147, 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các vào Điều 19, 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Đỗ Văn S. Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Đỗ Văn S.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn S có 02 con chung, tên Đỗ Khánh L, sinh ngày 05/11/2001 và Đỗ Hà A, sinh ngày 27/02/2016. Khi ly hôn giao cháu Hà A cho chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hà A đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh S cho chị H cho đến khi cháu Hà A đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới.

Cháu Đỗ Khánh L đã đủ 18 tuổi, chị H và anh S không yêu cầu xem xét việc chăm nuôi cháu L sau ly hôn, Tòa án không xem xét quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con đối với cháu L.

Anh Đỗ Văn S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn S không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chị H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai số AA/2020/0072891 ngày 04/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, nay chuyển thành án phí ly hôn, ghi nhận chị H đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị Nguyễn Thị H có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Đỗ Văn S vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về