Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 197/2020/HNGĐ-TLST ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc '' Tranh chấp ly hôn ", theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/QĐ-ST ngày 18/01/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đào Thị O, sinh ngày 03/02/1977.

HKTT : Xóm 1, thôn X, xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh ngày 28/4/1972.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm 1, thôn X, xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt) Hiện đang lao động tại Cộng hòa Séc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Đào Thị O trình bầy: Chị và anh M được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương ngày 04 tháng 01 năm 1995. Sau ngày cưới vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 3 năm, cuối năm 1998 anh M đi lao động tại Cộng hòa Séc cho đến nay. Trong thời gian anh M sang Cộng Hòa Séc lao động có về Việt Nam 3 lần, cụ thể vào năm 2000 khi mẹ chồng chị ốm nặng, anh M về nhà được 1 tháng sau đó lại đi. Đến năm 2003 anh M về ở gia đình được 3 năm, đến năm 2006 anh M tiếp tục sang Cộng Hòa Séc lao động, vợ chồng ít liên lạc với nhau, cho đến năm 2019 khi bố chồng chị ốm nặng và mất anh M về Việt Nam ở được 1 tháng. Chị đã khuyên bảo để anh M ở lại Việt Nam để vợ chồng đoàn tụ, nhưng anh M không đồng ý, tháng 9/2019 anh M tiếp tục sang Cộng hòa Séc lao động, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.

Về con chung: Chị và anh M có 2 con chung là Nguyễn Đình C, sinh ngày 06/9/1995 và Nguyễn Thủy Đ, sinh ngày 26/7/1999. Hiện các con đã trưởng thành, ly hôn chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chưa đề nghị Tòa án giải quyết, khi nào anh M về Việt Nam hai bên sẽ giải quyết sau; Về nợ chung không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án do chị O không cung cấp được địa chỉ của anh Nguyễn Văn M tại Cộng hòa Séc nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của anh Nguyễn Văn H là anh trai của anh M, đồng thời yêu cầu anh Ht cung cấp địa chỉ của anh M ở nước ngoài. Anh H xác định hiện anh M đang lao động tại Cộng hòa Séc, anh không biết địa chỉ của anh M ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh M thường xuyên liên lạc về với gia đình. Anh H đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh M biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, anh H xác định đã thông tin cho anh M biết. Anh M có quan điểm mâu thuẫn vợ chồng chưa trầm trọng, nhưng nếu chị O kiên quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo đơn của chị O và xin được giải quyết vắng mặt. Về con chung đã trưởng thành, không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung chưa đề nghị Tòa án xem xét, khi nào về Việt Nam sẽ đề nghị sau.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh tại địa phương thể hiện chị O và anh M là người địa phương. Hiện tại anh M sinh sống ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị O và anh M đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị O được ly hôn anh M; Về con chung, tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết; Về án phí: chị O phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị O không cung cấp được địa chỉ của anh M tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh M cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giải quyết theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị O có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị O và anh Nguyễn Văn M tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương ngày 04 tháng 01 năm 1995, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 3 năm, cuối năm 1998 anh M sang Cộng hòa Séc lao động, trong thời gian anh M đi nước ngoài có về Việt Nam thăm gia đình 3 lần, hiện tại đang sinh sống tại Cộng hòa Séc. Do thời gian chung sống cùng nhau không nhiều, vợ chồng thường xuyên xa cách nên tình cảm bất hòa, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Nay chị O xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Thông qua gia đình, anh M xác định vợ chồng không có mâu thuẫn lớn, nhưng đồng ý theo đơn ly hôn của chị O. Xét thấy, thực tế anh M chị O có thời gian dài xa cách, quan hệ vợ chồng không tồn tại, hai bên không tìm thấy tiếng nói chung, nên có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị O.

- Về con chung: Các con của chị O, anh M đã trưởng thành trên 18 tuổi, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị Đào Thị O phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đào Thị O được ly hôn anh Nguyễn Văn M 2.Về con chung: Các con chị Đào Thị O và anh Nguyễn Văn M đã trưởng thành, nên không xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Đào Thị O phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị O đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0004760 ngày 30 tháng 10 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị O đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đào Thị O được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Nguyễn Văn M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về