Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 223/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Thị Ngân H, sinh năm 1990; Nơi cư trú: số 51 Ấp H Trị, xã PT, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Nguyễn Đại H, sinh năm 1986; Nơi cư trú: 151 THĐ, phường 3, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, nguyên đơn Trương Thị Ngân H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị Trương Thị Ngân H và anh Nguyễn Đại H tự nguyện tìm hiểu, đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã PT, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang theo Giấy CNKH số 25 ngày 18/3/2016. Tuy nhiên cuộc sống hôn nhân chỉ hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung. Từ năm 2019 thì vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn. Vì lý do dịch bệnh Covid–19 còn phức tạp, chị ở xa nên đề nghị Toà án giải quyết vụ án vắng mặt chị.

Về con chung: có hai con chung là Nguyễn Trương HM, sinh ngày 02/5/2016 và Nguyễn Trương HA, sinh ngày 12/5/2018, hiện nay đang sống với mẹ. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con, không cần anh H phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu tòa giải quyết.

- Tại biên bản hoà giải, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Nguyễn Đại H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất ly hôn theo yêu cầu của chị H vì cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung.

Về con chung: có hai con chung là Nguyễn Trương H My, sinh ngày 02/5/2016 và Nguyễn Trương H Anh, sinh ngày 12/5/2018, hiện đang sống với ông bà ngoại tại Tiền Giang. Nay anh H đề nghị giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi cả hai con. Lý do vì chị H đi làm xa, giao con cho ông bà ngoại chăm sóc nên không đảm bảo được điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục con tốt nhất. Bản thân anh làm nghề xây dựng, đang làm việc tại thành phố Tuy Hoà, thu nhập bình quân trên 10.000.000đ/tháng nên có đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu tòa giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Bị đơn đồng ý ly hôn và đề nghị HĐXX xem xét quyền nuôi con. Trường hợp HĐXX giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng thì anh cũng đồng ý vì hiện nay các con đang sống cùng mẹ và ông bà ngoại rất tốt. Bị đơn sẽ tự nguyện cấp dưỡng theo khả năng và sẽ làm đơn thay đổi người nuôi con khi cần thiết.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Các đương sự đã chấp Hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Nguyên đơn đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên đề nghị HĐXX căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn.

+ Về nội dung vụ án: đề nghị HĐXX căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, giao hai con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xét. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về ly hôn, bị đơn có nơi cư trú tại 151 THĐ, phường 3, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc giải quyết vắng mặt đương sự: Nguyên đơn đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến Hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Ngân H và anh Nguyễn Đại H tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã PT, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang nên là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn và các đương sự đều thống nhất ly hôn. Vì vậy HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

[2.2] Về con chung: có hai con chung là Nguyễn Trương H My, sinh ngày 02/5/2016 và Nguyễn Trương H Anh, sinh ngày 12/5/2018. Căn cứ Biên bản xác minh, Biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2021 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang (thực hiện theo yêu cầu của Quyết định uỷ thác thu thập chứng cứ số 29 ngày 16/12/2021 của Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà) thì chị Trương Thị Ngân H và các con Nguyễn Trương H Anh, Nguyễn Trương H My có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống cùng hộ với ông bà ngoại Trương Văn Tấn, Nguyễn Thị Út tại số 51 Ấp H Trị, xã PT, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang từ khi các cháu My, Anh còn nhỏ. Điều này là phù hợp với lời khai của nguyên đơn về việc vợ chồng không còn sống chung với nhau từ năm 2019, chị và các con về nH cha mẹ ruột sinh sống, nuôi con từ đó đến nay. Căn cứ lời khai của chị Trương Thị Ngân H, ông Trương Văn Tấn, bà Nguyễn Thị Út và xác nhận của địa phương xã PT thì chị H hiện đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh nên phải gửi con cho ông bà ngoại trông nom giúp nhưng thường xuyên về thăm nH mỗi tuần 1-2 lần, các con được ông bà ngoại chăm sóc rất tốt, địa phương chưa tiếp nhận phản ánh nào về việc vi phạm quyền trẻ em đối với hai cháu. Do đó xác định người có nghĩa vụ, trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng hai con trong suốt thời gian qua chính là chị Trương Thị Ngân H. Hiện nay các cháu còn nhỏ nên để đảm bảo cuộc sống ổn định, tránh xáo trộn làm ảnh hưởng đến tâm lý và sự phát triển bình thường của trẻ, HĐXX xét thấy yêu cầu của chị H, trình bày của ông Tấn, bà Út về việc giao hai con cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Tại phiên toà, bị đơn cũng có ý kiến thống nhất nên HĐXX chấp nhận giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên anh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Trương Thị Ngân H được ly hôn với anh Nguyễn Đại H.

- Về con chung: giao hai con chung là Nguyễn Trương H My, sinh ngày 02/5/2016 và Nguyễn Trương H Anh, sinh ngày 12/5/2018 cho chị Trương Thị Ngân H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng; anh Nguyễn Đại H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: không xét.

- Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn Trương Thị Ngân H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004630 ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi Hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi Hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi Hành án dân sự thì người được thi Hành án dân sự, người phải thi Hành án dân sự có quyền thoả thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi Hành án dân sự.

Bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về