Bản án về tranh chấp ly hôn số 205/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 205/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 413/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09/4/2021, giữa các đương sự:

Nguy đơ : Ông Huỳnh Văn Trọng N, sinh ngày: 14/10/1990; địa chỉ: đường BT, Phường MB, Quận XI, Thành phố H (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơ : Bà Trần Thị Lệ D, sinh ngày: 10/01/1992; địa chỉ: đường BT, Phường MB, Quận XI, Thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại Đơn khởi kiện ngày 18/9/2020, bản tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên đơn là ông Huỳnh Văn Trọng N trình bày:

Ông Huỳnh Văn Trọng N và bà Trần Thị Lệ D tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 17/2014, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân phường 14, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/02/2014.

Trong quá trình sống chung, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và bất đồng do có nhiều khác biệt trong lối sống và suy nghĩ. Khi có mâu thuẫn, bà D bỏ nhà đi rất nhiều ngày mới về nhà, không báo cho ai, bỏ mặc con cái cho gia đình chồng chăm sóc. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân 1 không đạt được, không thể tiếp tục mối quan hệ hôn nhân nữa nên ông Huỳnh Văn Trọng N yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bà Trần Thị Lệ D.

Về con chung: Có 01 (một) con chung là cháu Huỳnh Trần Thảo Ng (nữ), sinh ngày: 05/9/2014. Ông N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Ng, không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.

Về nợ chung, tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân Quận 11 đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn nhưng phía bị đơn đã không đến Tòa án để giải quyết. Do đó, Tòa án không thể tiến hành ghi nhận ý kiến đối với phía bị đơn được.

* Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán chưa đảm bảo thực hiện đúng các hoạt động tố tụng sau: chưa đảm bảo đúng thời hạn tống đạt Thông báo thụ lý cho bị đơn; chưa đảm bảo thời hạn xét xử vụ án; Thẩm phán hai lần tiến hành lập biên bản về việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 26/1/2021 và 16/3/2021, tuy nhiên chưa tống đạt Thông báo kết quả phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 26/1/2021 cho bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe đương sự có mặt tại phiên tòa trình bày, căn cứ vào nội dung tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Ông Huỳnh Văn Trọng N khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với bà Trần Thị Lệ D nên đây là vụ án tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà Trần Thị Lệ D cư trú tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Ông Huỳnh Văn Trọng N có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 22/3/2021.

Phiên tòa xét xử vụ án được mở vào lúc 08 giờ ngày 09/4/2021 và 08 giờ 00 ngày 28/4/2021, bà Trần Thị Lệ D đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Việc kết hôn giữa ông Huỳnh Văn Trọng N và bà Trần Thị Lệ D trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình sống chung, vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn và bất đồng do có nhiều khác biệt trong lối sống và suy nghĩ. Hai bên đã nhiều lần tự hàn gắn nhưng không được. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục mối quan hệ hôn nhân nữa nên ông Huỳnh Văn Trọng N yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bà Trần Thị Lệ D.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân Gia đình: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên cuộc sống giữa ông N và bà D không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo kết quả phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định hoãn phiên tòa cho bà D đến Tòa án để giải quyết tranh chấp ly hôn nhưng bà D cố tình vắng mặt và cũng không có ý kiến phản hồi những vấn đề ông N yêu cầu đã được ghi trong thông báo thụ lý vụ án, chứng tỏ bà D không quan tâm cũng không thiết tha đoàn tụ gia đình. Việc ông N yêu cầu ly hôn với bà D là chính đáng; do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn với bà D của ông N.

[4] Về con chung: Ông Huỳnh Văn Trọng N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Huỳnh Trần Thảo Nguyên không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.

Theo Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Hội đồng xét xử xét thấy ông N hiện là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Bà D vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến về việc chăm sóc con chung, hơn nữa trẻ Ng lại có nguyện vọng ở với ông N; do đó, Hội đồng xét xử thiết nghĩ cần tiếp tục giao trẻ Ng cho ông Huỳnh Văn Trọng N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của ông N không yêu cầu bà Trần Thị Lệ D cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí:

Ông Huỳnh Văn Trọng N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Văn Trọng N.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Huỳnh Văn Trọng N được ly hôn với bà Trần Thị Lệ D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 17/2014, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/02/2014 không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao cho ông Huỳnh Văn Trọng N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ Huỳnh Trần Thảo Ng (nữ), sinh ngày 05/9/2014. Việc giao nhận con được thực hiện ngay sau khi quyết định có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận sự tự nguyện của ông N không yêu cầu bà Trần Thị Lệ D cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần Thị Lệ D được quyền thăm nom con, không ai được cản trở bà D thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Vì quyền, lợi ích của con, việc nuôi dưỡng và cấp dưỡng con chung có thể được thay đổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Ông Huỳnh Văn Trọng N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0015813 ngày 23/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đương sự đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 205/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:205/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về