TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 198/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 24 tháng 02 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 245/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2020 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 giữa:
Nguyên đơn: Bà Võ Thị Thu H, sinh năm: 1981.
Địa chỉ: 6/4 ấp A, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ông Trần A S, sinh năm: 1973.
Địa chỉ: 4/23 ấp C, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
(bà H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; ông S vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được – nguyên đơn bà Võ Thị Thu H trình bày: Bà và ông Trần A S chung sống với nhau từ năm 2003, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 126, quyển số 01/2003 vào ngày 03/12/2003.
Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp nên vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, ông S không quan tâm đến gia đình. Bà và ông S đã sống ly thân từ tháng 4/2018 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Trần A S.
Về con chung: Bà và ông S có 02 con chung tên Trần Thục M (nữ), sinh ngày: 05/10/2004 và Trần Ngọc Nhã N (nữ), sinh ngày 06/01/2008. Hiện hai trẻ M và N đang sống chung với bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ M và trẻ N, bà không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn ông Trần A S vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông S.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Võ Thị Thu H đối với ông Trần A S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Võ Thị Thu H nộp đơn xin ly hôn đối với ông Trần A S. Ông Trần A S hiện đang cư trú tại huyện Bình Chánh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Ông Trần A S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Trần A S theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bà Võ Thị Thu H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời ông Trần A S đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa bà Võ Thị Thu H và ông Trần A S nhưng ông S không đến Tòa án để giải quyết. Vì vậy, ông Trần A S tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Do đó, ông Trần A S phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 126, quyển số 01/2003 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 03/12/2003 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Võ Thị Thu H và ông Trần A S là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[5] Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông S không thể hàn gắn được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông S để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà H thì giữa bà và ông S bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay. Như vậy, vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa, ông S cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn tình cảm và đều không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Thu H đối với ông Trần A S.
[6] Về con chung: Bà Võ Thị Thu H và ông Trần A S có 02 con chung tên Trần Thục M (nữ), sinh ngày: 05/10/2004 và Trần Ngọc Nhã N (nữ), sinh ngày 06/01/2008. Hiện hai trẻ M và N đang sống chung với bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 trẻ M và N, bà không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con. Theo biên bản ghi nhận ý kiến của 02 trẻ M và N nếu cha mẹ không còn sống chung thì 02 trẻ M và N muốn sống với mẹ. Ông S vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông S về con chung giữa bà H và ông S nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của bà H, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao 02 trẻ Trần Thục M (nữ), sinh ngày: 05/10/2004 và Trần Ngọc Nhã N (nữ), sinh ngày 06/01/2008 cho bà H tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông S cho đến khi bà H có yêu cầu.
[7] Về tài sản chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8] Về nợ chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Về án phí: Bà Võ Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: 1.Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Võ Thị Thu H đối với ông Trần A S.
Bà Võ Thị Thu H được ly hôn với ông Trần A S.
Giấy chứng nhận kết hôn số 126 quyển số 01/2003 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 03/12/2003 không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung: Bà Võ Thị Thu H và ông Trần A S có 02 con chung tên Trần Thục M (nữ), sinh ngày: 05/10/2004 và Trần Ngọc Nhã N (nữ), sinh ngày 06/01/2008. Bà Võ Thị Thu H được quyền tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 trẻ Trần Thục M và Trần Ngọc Nhã N; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông S cho đến khi bà H có yêu cầu.
Ông Trần A S có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Về tài sản chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết 4. Về nợ chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
5. Về án phí: Bà Võ Thị Thu H chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số 0078753 ngày 13/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tranh chấp ly hôn số 198/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 198/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về